Bố mẹ tôi có 3 người con. Bố qua đời cách đây 10 năm không để lại di chúc. Mẹ qua đời cách đây 1 năm. Trước khi mất, mẹ có viết di chúc để lại 3 căn nhà cho 3 người con. Ba căn nhà này đều là tài sản chung của bố mẹ. Ông bà nội và ngoại của tôi đều mất cách đây 15 năm.
Tuy nhiên, 3 căn nhà đều là tài sản chung của bố mẹ, và trong di chúc, mẹ không chỉ rõ căn nhà nào sẽ chia cho ai. Đáng chú ý, trong 3 căn nhà có 2 căn nằm liền kề, nhưng chỉ chung một sổ đỏ. Căn mặt tiền trị giá khoảng 5 tỉ đồng do tôi đang ở. Căn phía sau trong hẻm, giá trị khoảng 2 tỉ đồng, do em trai sử dụng. Do không đồng thuận được, người em trai khởi kiện đòi chia lại phần giá trị ở căn nhà mặt tiền.
Vậy theo quy định pháp luật, di chúc viết không rõ ràng sẽ xử lý như thế nào? Việc bố tôi mất không để lại di chúc có ảnh hưởng gì không? Nếu xử lý theo quy định pháp luật, 3 anh em tôi sẽ được phân chia như thế nào?
Bạn đọc Thu Hoài (TP.Đà Nẵng).
Luật sư tư vấn
Luật sư Đào Thị Bích Liên (Văn phòng luật sư Hà Hải và cộng sự) tư vấn, do di chúc không chỉ rõ căn nhà nào cho ai và các bên cũng không thỏa thuận được. Vì thế, theo quy định, tòa án có thể chia theo tỉ lệ giá trị, yêu cầu bán nhà chia tiền, hoặc người nào được nhận hiện vật phải thanh toán phần chênh lệch cho người còn lại.

Luật sư Đào Thị Bích Liên (Văn phòng luật sư Hà Hải và cộng sự) tư vấn
ẢNH: NVCC
Dù hai căn được xây tách biệt, nhưng nếu chung giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì vẫn là một thửa đất, một tài sản pháp lý. Nếu muốn phân chia cụ thể, phải đo đạc, tách thửa và tách sổ.
Phân chia di sản khi người chồng không để lại di chúc
Khi người chồng mất đi, không để lại di chúc, thì 1/2 tài sản chung của chồng trở thành di sản và được chia theo pháp luật (điểm a khoản 1 điều 650 bộ luật Dân sự).
Theo đó, người vợ và 3 người con là hàng thừa kế thứ nhất, mỗi người hưởng 1/4 phần trong khối di sản của người chồng (tức trong 1/2 tổng giá trị tài sản).
Phần tài sản còn lại của người vợ (gồm phần của bà sau khi chia tài sản chung và phần bà được thừa kế từ chồng) là di sản có di chúc. Tuy nhiên, di chúc mà bà lập không đáp ứng điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nếu các đồng thừa kế không thống nhất để người vợ định đoạt phần di sản của chồng. Trường hợp này, di chúc bị vô hiệu theo điều 122 bộ luật Dân sự vì không đáp ứng đủ điều kiện tại điều 117 bộ luật Dân sự.
Xử lý khi di chúc không rõ ràng
Nếu các đồng thừa kế thống nhất để người vợ định đoạt toàn bộ di sản và di chúc có nội dung không rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, thì căn cứ điều 648 bộ luật Dân sự, những người thừa kế phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc theo ý nguyện đích thực của người đã mất, có xét đến mối quan hệ với người thừa kế.
Nếu không thống nhất được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết. Trường hợp chỉ có một phần nội dung di chúc không giải thích được, nhưng không ảnh hưởng đến phần còn lại, thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực.
Chia thừa kế theo pháp luật
Trường hợp di chúc không hợp pháp, thì di sản của cả vợ và chồng sẽ chia theo pháp luật (điểm a, b khoản 1 điều 650 Bộ luật Dân sự). Cụ thể, căn cứ khoản 2 điều 651 bộ luật Dân sự, các đồng thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Ví dụ, nếu tổng giá trị tài sản chung của hai vợ chồng là 10 tỉ đồng, thì được chia như sau:
• Phần tài sản của chồng là 5 tỉ đồng chia đều cho 4 người gồm vợ và 3 con, tức mỗi người hưởng 1,25 tỉ đồng.
• Người vợ hưởng 5 tỉ đồng (tài sản chung) + 1,25 tỉ đồng (thừa kế từ chồng), tức 6,25 tỉ đồng. Số tiền này lại chia đều cho 3 con, mỗi người 2,08 tỉ đồng.
Tổng cộng, mỗi người con hưởng:
1,25 tỉ đồng (thừa kế của cha) + 2,08 tỉ đồng (thừa kế của mẹ) = 3,3 tỉ đồng.
Người nào được nhận tài sản bằng hiện vật có trách nhiệm thanh toán lại phần giá trị tương ứng cho các đồng thừa kế còn lại. Trường hợp người nào có công sức quản lý, gìn giữ, tôn tạo di sản, sẽ được xem xét công sức đóng góp khi chia thừa kế.