Chứng khoán

Chứng khoán Thiên Việt (TVS) lãi ròng quý II gần 100 tỷ đồng, chốt lời hơn 10 tỷ đồng cổ phiếu HPG

KQKD quý II/2023 của Chứng khoán Thiên Việt. (Nguồn: Diệu Nhi tổng hợp từ BCTC).

Trong Báo cáo tài chính riêng quý II/2023 mới công bố, Chứng khoán Thiên Việt (TVS, mã: TVS) ghi nhận doanh thu hoạt động 204,7 tỷ đồng, gần gấp đôi con số cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, đóng góp 68,1% tổng doanh thu là lãi từ các tài sản tài chính ghi nhận thông qua lãi/lỗ (FVTPL) 139,3 tỷ đồng, cao gấp 5,4 lần so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, lãi từ các khoản đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn (HTM) cũng tăng 21,9% lên 53,4 tỷ đồng.

Trong khi đó, doanh thu các nghiệp vụ khác của TVS đều giảm, cụ thể lãi từ các khoản cho vay và phải thu giảm 49,5% còn 5 tỷ đồng; doanh thu môi giới chứng khoán giảm 45,6% còn 4,3 tỷ đồng; doanh thu tư vấn tài chính giảm 83,7% còn 2 tỷ đồng. Trong quý II, công ty không có doanh thu bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán, trong khi cùng kỳ năm ngoái ghi nhận 4,3 tỷ đồng.

Ngược chiều doanh thu, chi phí hoạt động quý II của TVS giảm 78,2% xuống còn 29,1 tỷ đồng. Chủ yếu do lỗ các tài sản tài chính ghi nhận thông qua lãi/lỗ (FVTPL) giảm 86,4% còn 15 tỷ đồng.

Kết quả là, Chứng khoán Thiên Việt báo lãi sau thuế quý II 98,7 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm 2022 lỗ 56,9 tỷ đồng, Luỹ kế 6 tháng đầu năm nay, công ty lãi sau thuế 125,7 tỷ đồng, cùng kỳ năm ngoái lỗ 19 tỷ đồng. Giải trình kết quả, TVS cho biết nguyên nhân chủ yếu do biến động của thị trường giúp hoạt động tự doanh và môi giới chứng khoán tăng trưởng mạnh mẽ so với cùng kỳ năm trước.

Thời điểm cuối quý II, tổng giá trị tài sản của TVS đạt 4.789 tỷ đồng, tăng 420 tỷ đồng so với thời điểm đầu năm. Trong đó, cho vay ký quỹ 172,9 tỷ đồng, tăng 63,4% so với đầu năm.

Lãi/lỗ bán các tài sản tài chính FVTPL của TVS trong 6 tháng đầu năm 2023. (Nguồn: BCTC).

Kết thúc quý II, TVS lãi bán các tài sản tài chính FVTPL 47,8 tỷ đồng, lỗ bán các tài sản tài chính FVTPL 7,4 tỷ đồng. Như vậy, công ty lãi ròng mảng này 40,4 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm ngoái lãi ròng chỉ 2,4 tỷ đồng. Trong quý II, TVS đã bán toàn bộ 4,15 triệu cổ phiếu HPG với giá 25.737 đồng/cp, thu về khoản lãi gần 10,3 tỷ đồng.

Tại ngày 30/6, danh mục FVTPL của công ty có giá trị gốc 926,1 tỷ đồng (giảm 158 tỷ đồng so với thời điểm đầu năm), tuy nhiên có giá trị hợp lý 995,2 tỷ đồng. Như vậy, TVS đang lãi danh mục này 69,1 tỷ đồng, tương đương mức lãi 7,5%. Chi tiết danh mục, công ty đang nắm giữ 674,1 tỷ đồng cổ phiếu; 213,1 tỷ đồng trái phiếu chưa niêm yết; và 38,8 tỷ đồng chứng chỉ quỹ.

Danh mục FVTPL của TVS thời điểm đầu năm và cuối quý II. (Nguồn: BCTC).

Cuối quý II, danh mục HTM là tiền gửi có kỳ hạn và chứng chỉ tiền gửi tại các tổ chức tín dụng có giá trị 2.811 tỷ đồng, tăng 11,4% so với đầu năm.

Danh mục AFS của TVS thời điểm đầu năm và cuối quý II. (Nguồn: BCTC).

Các tin khác

Tuần 17 - 21/7: Khối ngoại đảo chiều mua ròng 1.350 tỷ đồng, tâm điểm mã VNM

Trong bối cảnh thị trường giằng co, khối ngoại đã tranh thủ mua ròng trên 1.000 tỷ đồng trong 3 phiên đầu tuần. Tính chung cả tuần, NĐT nước ngoài đã mua ròng hơn 1.350 tỷ đồng, VNM là cổ phiếu được khối ngoại mua ròng lớn nhất với giá trị 514,1 tỷ đồng, tiếp đến là VHM với giá trị 387,8 tỷ đồng.

Giàu nghèo qua chiếc điều hòa

MỹĐiều hòa giúp nhiều người không cần bận tâm đến nhiệt độ cao, trong khi số khác chật vật với cái nóng vì không có thiết bị này.

Tiếp tục xét xử đại án "chuyến bay giải cứu": Những cuộc ngã giá bất thành

Tự bào chữa tại phiên xét xử đại án “chuyến bay giải cứu” xảy ra tại Bộ Ngoại giao, TP Hà Nội và các tỉnh, thành phố, nhiều bị cáo thừa nhận đã không vượt qua được cám dỗ về vật chất. Cũng từ lời bào chữa của nhóm các bị cáo là doanh nghiệp, việc đưa tiền cảm ơn cho các cựu quan chức, bản chất là những cuộc ngã giá để mong đạt mục tiêu được cấp phép chuyến bay.

Triển vọng kinh tế nửa cuối năm: Chỉ số nào dễ đoán, lĩnh vực nào tăng trưởng vẫn là ẩn số?

Việt Nam gần như chắc chắn không đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 6,5% năm nay, tuy nhiên lạm phát được kiểm soát tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ. Trong khi đó, khu vực sản xuất, xuất khẩu khó dự đoán hơn khi phụ thuộc nhiều vào diễn biến bên ngoài.