Một đời người trăm năm, một đời cây vài trăm năm, một địa danh có thể tồn tại cả ngàn năm. Thế nhưng, trong vài thập niên gần đây, nhiều loài cây cổ thụ ở đô thị đã dần biến mất, để lại bao niềm tiếc nhớ.
Cây tử thần, độc như lá ngón
Ít người biết H.Củ Chi (nay đã tách thành 7 xã, trong đó có 1 xã tên Củ Chi) được đặt tên dựa trên thực tế là vùng đất này từng có rất nhiều cây củ chi (còn gọi là mã tiền). Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức có ghi: "Cây củ chi, trái tròn như chanh, lớn lắm bằng cam, màu vàng, nhiều hột sáng chói như bạc…".

Cây củ chi cổ thụ ở xã Phú Hòa Đông, TP.HCM
Ảnh: Lam Yên
Cây lâu năm nhất ở vùng đất này được cho là đã hơn trăm tuổi nằm ở khu nhà mồ ông Nguyễn Tấn Tới (xã Phú Hòa Đông). Khi biết tôi tìm cây củ chi cổ thụ, anh Phạm Ngọc Bảo (người dân sống tại đây) tận tình dắt bộ vào con đường đất đầy các mộ lớn nhỏ. Tới một đám cỏ rậm rạp, anh Bảo chỉ vào một gốc cây đen kịt, hoai mục theo mưa nắng: "Cây củ chi cổ thụ từng ở đây, 2 năm trước bị cháy, cây chết dần nên chính quyền địa phương cho người xuống dọn bỏ".
Đi sâu hơn, cũng trong địa phận xã Phú Hòa Đông, tôi tìm đến được một cây củ chi cổ thụ khác. Cây này cao hơn 20 m, ngoài thân chính còn có nhiều thân cây con mọc sát nhau, tạo thành cụm lớn khoảng 3 người ôm. Ông Bảy (70 tuổi, nhà đối diện cây củ chi cổ thụ này) cho biết cây đã hơn 100 tuổi. "Cây độc lắm! Hồi nhỏ, có lần tôi chơi ở sân nhà, thấy một bà cụ nghe nói bị bệnh nan y đến cây hái lá ăn, ăn xong đi chừng 10 bước là gục xuống. Hàng xóm quanh đây xúm lại đỡ dậy mà không còn cứu được nữa".

Lá cây củ chi có hình dạng gần giống lá lốt nhưng rất độc
Ảnh: Lam Yên
Trên cây củ chi, từ thân, lá, hạt, đến vỏ cây đều chứa hàm lượng strychnin rất cao. Đây là chất kịch độc, chỉ một lượng rất nhỏ cũng có thể khiến người khỏe mạnh bị trụy tim mạch rồi tử vong. Tuy nhiên, hạt và vỏ cây có thể đem ngâm rượu, dùng xoa bóp ngoài da trị sưng viêm, nhức mỏi… Vì cây rất độc, hạt lại có dạng tròn lạ mắt, sợ trẻ con tò mò nhặt chơi, ăn trúng nên người dân dần chặt bỏ hết.
Khi Sài Gòn hiếm… gòn
Trong cuốn Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận, học giả Trương Vĩnh Ký có đưa giả thuyết lý giải về tên gọi Sài Gòn: "Theo tác giả (Trịnh Hoài Đức) của Gia Định thông chí, Sài có nghĩa là củi, Gòn là tên tiếng An Nam của cây bông gòn. Người ta cho rằng có tên này là bởi người Chân Lạp trồng rất nhiều bông xung quanh thành lũy đất xưa kia". Dù còn nhiều giả thuyết khác thuyết phục hơn về tên gọi Sài Gòn nhưng có một thực tế rằng chỉ mới khoảng 20 - 30 năm trước thôi, cây gòn vẫn còn khá nhiều tại TP.HCM. Theo năm tháng, loài cây này dần dần biến mất. Bây giờ, tìm cây gòn giữa lòng TP.HCM không dễ dàng gì.
Ở cổng phụ chùa Giác Lâm, một trong những ngôi chùa cổ xưa nhất TP.HCM trên đường Lạc Long Quân (P.Bình Thới), có 3 cây gòn cổ thụ cao lớn. Trên đường Xô Viết Nghệ Tĩnh (đoạn mũi tàu Đài liệt sĩ, hướng đi Thanh Đa) cũng còn một cây gòn cổ thụ gốc to khoảng 2 vòng tay ôm, tỏa bóng bao trùm con đường.

3 cây gòn trong khuôn viên chùa Giác Lâm
Ảnh: Lam Yên
Sợi bông gòn dùng nhồi gối nệm, làm lớp cách nhiệt; hạt ép lấy dầu nấu xà phòng. Bọn trẻ ngày xưa thường vò lá cây gòn với nước để làm nước xà phòng chơi thổi bong bóng. Cuối năm dương lịch cùng là mùa gòn kết trái, lá rụng hết, trên cành lủng lẳng chi chít cả ngàn trái xanh. Khoảng tháng 4, tháng 5, trái khô dần, vỏ ngả màu vàng nhạt rồi nứt ra, để lộ phần tơ gòn trắng ngà đầy ắp phía trong.

Cây gòn trên đường Xô Viết Nghệ Tĩnh
Ảnh: Lam Yên
"Cây cao lắm, khó khều hái trái gòn được, nên trái thường chỉ tự rụng. Tháng 5 lại là đầu mùa mưa giông, trái gòn theo gió lốc rụng xuống đất bôm bốp, trúng đầu người đi đường, may là có mũ bảo hiểm", bà Lê Thị Sáu (67 tuổi, nhà gần cây gòn trên đường Xô Viết Nghệ Tĩnh) cho biết.
Ngày nay, lợi ích từ cây gòn trong đô thị không còn nhiều. Đã vậy, trái gòn rụng lại khá nguy hiểm. Có lẽ đây là một trong những lý do khiến cây gòn ở những nơi công cộng dần bị đốn hạ.

Hoa và trái gòn
Ảnh: Quỳnh Như
Rễ khí kỳ lạ của "cụ" đa
Cây lớn tuổi nhất ở TP.HCM có lẽ là cây đa cổ thụ trong công viên Bách Tùng Diệp (góc đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Lý Tự Trọng, P.Sài Gòn), được cho là đã trên 300 tuổi. Cuốn Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận của Trương Vĩnh Ký (Nguyễn Đình Đầu lược dịch và chú thích) mô tả: "Trên khoảng khám đường (nay là Thư viện Khoa học tổng hợp TP.HCM) và Tòa án mới, xưa có ngôi chợ gọi là chợ Da Còm, vì ở đây có một cây đa cổ thụ mà thân cây thì còng". Có thể cây đa được đề cập trong sách chính là cây đa ở công viên Bách Tùng Diệp ngày nay.
Điều thú vị là cây đa có nhiều rễ khí từ cành buông xuống. Khi rễ khí đủ dài và chạm mặt đất thì sẽ bám rễ xuống đất, cứng cáp hơn và có thể mọc thêm cây mới. Các cây mới nhanh chóng phát triển, cùng nhau tạo thành hệ thống chống đỡ cho cây mẹ. Sau vài chục năm, một cây đa có thể tạo ra một nhóm nhiều cây đan xen vào nhau um tùm, rậm rạp.
Cây đa cổ thụ trong công viên Bách Tùng Diệp có 5 thân, không phân biệt được thân nào chính, thân nào phụ. Giữa các thân vẫn còn những khoảng trống lớn như 3 cái cổng, đủ cho người chui qua lại. Chu vi vòng quanh cụm cây vào khoảng 60 bước chân (tương đương 25 - 30 m).

Công viên Bách Tùng Diệp, nơi có cụ đa 300 tuổi (phía sau), là nơi tập thể dục yêu thích của người dân
Ảnh: Lam Yên

Giữa các thân vẫn còn những khoảng trống lớn như 3 cái cổng, đủ cho người chui qua lại
Ảnh: Lam Yên

Buổi trưa, nhiều người thường nằm, ngồi dưới bóng đa râm mát để nghỉ ngơi
Ảnh: Lam Yên

Cây đa ở Công viên Bách Tùng Diệp
Ảnh: Lam Yên
Nơi này ngày xưa, "cây đa cổ thụ cành rễ chằng chịt, bóng che chừng nửa mẫu, người buôn bán nhóm chợ dưới bóng cây" (theo Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức). Ngày nay, hơn 300 năm sau, "cụ" đa khổng lồ vẫn sừng sững như một biểu tượng xanh giữa trung tâm thành phố. Những buổi trưa nắng gắt, nhiều người (nhất là dân lao động) vẫn đến đây ngả lưng trên thảm cỏ, nằm dưới bóng đa xanh mát chợp mắt, nghỉ ngơi rồi tiếp tục cuộc mưu sinh…
(còn tiếp)
Tên địa danh gắn với cây cỏ
Hàng Xanh (đúng ra là Hàng Sanh) có tên lấy từ cây sanh, giống cây da (cây đa), thuộc họ Dâu tằm (Moraceae). Gò Vấp (đúng ra là Gò Vắp) tên lấy từ cây vắp là loại cây gỗ, thân cứng chắc thuộc họ Cồng (Calophyllaceae). Thiềng Liềng (đúng ra là Thiền Liền) tên lấy từ cây thiền liền (còn gọi là cây địa liền) là loại cây thân thảo, thuộc họ Gừng (Zingiberaceae), thân rễ thường dùng để làm thuốc. Bến Lức (đúng ra là Lứt) tên lấy từ cây lứt là loại cây thân thảo, thường mọc hoang ở cửa sông, vùng ven biển, thuộc họ Cúc (Asteraccac), rễ dùng sắc uống để giảm ho, điều kinh, lá đem xông giúp giảm đau, mỏi lưng.