Dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) (sửa đổi) dự kiến sẽ được Quốc hội khóa XV biểu quyết thông qua tại đợt 2, Kỳ họp thứ 9 đã bổ sung mặt hàng nước giải khát có đường, là mặt hàng mới, theo Tiêu chuẩn Việt Nam với với hàm lượng đường trên 5mg/l vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất 10%.
Theo đại diện Bộ Tài chính, dự thảo luật đề xuất áp mức thuế 8% với mặt hàng này vào năm 2027 và sau này tăng dần lên 10%. Hiện vẫn còn rất nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề này.
Một số đại biểu cho rằng cần cân nhắc kỹ lưỡng và có lộ trình áp thuế phù hợp đối với mặt hàng mới như nước giải khát có đường. Đại biểu Nguyễn Thị Thu Dung – Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Bình cho rằng, việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường cần phải được cân nhắc thấu đáo và dựa trên các đánh giá toàn diện.
Bởi việc tăng hay áp thuế có thể giúp tăng thu ngân sách trong ngắn hạn nhưng nếu thực hiện quá nhanh và mạnh sẽ tạo ra hiệu ứng ngược, làm giảm nguồn thu trong trung và dài hạn, người tiêu dùng là đối tượng cuối cùng chịu chi phí sẽ là nhóm ảnh hưởng rõ nét nhất.
Đặc biệt là việc đánh giá khoa học về mối liên hệ giữa tiêu thụ nước giải khát có đường và sức khỏe cộng đồng và kết quả đánh giá nên được công khai để đảm bảo tính minh bạch và tạo sự đồng thuận của xã hội. Đại biểu cũng rất trăn trở về việc chưa có cơ sở khoa học vững chắc để khẳng định rằng nước giải khát có đường là nguyên nhân chính và duy nhất gây ra tình trạng thừa cân, béo phì.
Đánh thuế nước giải khát có đường có làm giảm thừa cân, béo phì?
Liên quan đến vấn đề này, theo đại diện Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam (VBA), một số kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc áp thuế TTĐB đối với mặt hàng nước giải khát có đường không hiệu quả đối với mục tiêu ngăn ngừa và giảm thừa cân béo phì, thậm chí có thể gây ra những tác động không mong muốn hoặc phản tác dụng.
Thực tiễn một số nước, sau một thời gian áp dụng thuế TTĐB đối với mặt hàng nước giải khát có đường lại có tỷ lệ thừa cân béo phì không giảm mà lại tăng qua các năm.
Như Chile có thời điểm áp dụng vào năm 2014, giai đoạn 2009 - 2010, tỷ lệ béo phì ở nam và nữ giới lần lượt là 19,2% và 30,7%. Sau khi áp dụng thuế TTĐB đối với nước ngọt, đến giai đoạn 2016 - 2017, tỷ lệ béo phì ở cả nam và nữ giới Chile đều tăng, lần lượt là 30,3% và 38,4%.
Một số quốc gia châu Âu như Bỉ áp dụng năm 2016, năm 2014, tỷ lệ béo phì ở nam giới nước này là 13,9% còn ở nữ giới là 14,2%, nhưng đến năm 2019, tỷ lệ này ở nam giới là 17,2% và nữ giới là 15,6%. Hay Mexico cũng áp dụng vào năm 2014, năm 2012, tỷ lệ béo phì ở nam giới là 26,8% còn nữ giới là 37,5%, nhưng đến 2018 – 2019, tỷ lệ này đã tăng lên 30,5% ở nam giới và 40,2% ở nữ giới.
Một báo cáo của Ủy ban Châu Âu năm 2014 cũng đã chỉ ra điều tương tự khi mà lượng tiêu thụ nước ngọt tại Pháp chỉ giảm 3,3%, trong khi giá sản phẩm đã tăng 5% do thuế. Điều này chứng minh việc thiếu hiệu quả khi sử dụng công cụ thuế để kiểm soát nhóm hàng này. Một số nước đã phải từ bỏ công cụ này sau một thời gian áp dụng vì không có tác động đáng kể lên việc cải thiện sức khoẻ cộng đồng.
Theo báo cáo của WHO, cho đến nay, Đan Mạch và Nauy đã bãi bỏ sắc thuế TTĐB áp dụng với nước giải khát có đường. Chính phủ tuyên bố bãi bỏ thuế này nhằm tạo việc làm và giúp đỡ nền kinh tế địa phương.
Nhật Bản không áp dụng thuế TTĐB đối với nước giải khát, nhưng lại là quốc gia có tỷ lệ thừa cân, béo phì thấp nhất trong khu vực và trên thế giới với tỷ lệ béo phì ở người lớn là 4,5%; tỷ lệ thừa cân và béo phì ở trẻ em lần lượt là 3,8 % và 4,1%. Thông qua hai bộ luật có tên gọi là Shuku Iku và Metabo, Nhật Bản tập trung vào chính sách giáo dục dinh dưỡng và tăng cường vận động.

Nước giải khát có đường bày bán tại một siêu thị. (Ảnh: VOV).
Cần nghiên cứu tác động của chính sách
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Bùi Khánh Nguyên, Phó TGĐ Đốc đối ngoại truyền thông & Phát triển bền vững, Công ty TNHH Nước giải khát Coca-Cola Việt Nam cho rằng, chính sách cần dựa trên sự công bằng theo hai tiêu chí.
Thứ nhất là chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, trong đó lưu ý nghiên cứu về mối quan hệ nhân quả. Nhóm sử dụng và nhóm đối chứng. Cần có thêm nghiên cứu quy mô lớn hơn, độ tin cậy cao hơn.
Nếu đánh thuế thì cần áp dụng toàn diện, không nên chỉ nhắm vào một sản phẩm mà bỏ qua các sản phẩm có đường khác, ông Nguyên nhấn mạnh.
Bà Nguyễn Minh Tâm, Giám đốc đối ngoại - Quan hệ Chính phủ, Suntory Pepsico Việt Nam cũng cho rằng, việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ không chỉ tác động tới ngành đồ uống mà còn ảnh hưởng tới những ngành liên quan, như bán lẻ, bao bì, mía đường, vận chuyển, du lịch, …
Việc tăng thuế đột ngột sẽ làm giảm sức mua của người tiêu dùng, gián đoạn hoạt động kinh doanh và ảnh hưởng hoạt động đầu tư của doanh nghiệp trong nhiều ngành. Điều này làm trầm trọng hơn những bất lợi và thách thức đối với cộng đồng doanh nghiệp, nhất là khi Tổng thống Mỹ công bố mức thuế đối với Việt Nam lên tới 46%.