Sáng 3/12, tại tọa đàm "Bước tiến trong Phát hiện, Chẩn đoán và Điều trị bệnh" trong khuôn khổ Tuần lễ Khoa học - Công nghệ VinFuture 2025, Giáo sư Ana Belén Elgoyhen - Đại học Buenos Aires, Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật Quốc gia (Argentina) trình bày bài thuyết trình với chủ đề "Các chiến lược điều trị mới cho mất thính lực: Một kỷ nguyên đầy hứa hẹn".
Hướng nghiên cứu của bà tập trung vào di truyền học, sinh lý học và bệnh học liên quan đến thính giác ở cấp độ hệ thống và khớp thần kinh, các cơ chế gây mất thính lực do tiếng ồn và các cơ chế sinh lý bệnh dẫn đến chứng ù tai.

Giáo sư Ana Belén Elgoyhen.
"Mất thính lực ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống, cơ hội giáo dục, khả năng hòa nhập xã hội và làm tăng nguy cơ suy giảm nhận thức cũng như các vấn đề sức khỏe tâm thần ở người trưởng thành", bà Elgoyhen nói.
WHO ước tính hiện có hơn 1,5 tỷ người đang sống chung với một mức độ mất thính lực nào đó. Con số này được dự báo sẽ tăng lên đáng kể, với ước tính khoảng 2,5 tỷ người vào năm 2050.
Theo Giáo sư Ana Belén Elgoyhen, nếu không có biện pháp can thiệp hiệu quả, chi phí hàng năm do mất thính lực trên toàn cầu khoảng 980 tỷ USD. Gánh nặng này đặc biệt nặng nề ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình.
Ngoài yếu tố di truyền, theo vị chuyên gia, những yếu tố sinh học (tình trạng sức khỏe, bệnh lý), yếu tố môi trường, hành vi lối sống (hay nghe nhạc to) cũng tác động lớn đến suy giảm thính lực.
Về giải pháp cho người mất thính lực hiện nay, Giáo sư Elgoyhen cho biết, các trường hợp mất thính lực nhẹ hoặc trung bình sẽ sử dụng máy trợ thính để khuếch đại âm thanh tới tai.
Còn với người điếc thì sẽ cấy điện cực ốc tai. Song, đây là phương pháp có chi phí cao, không khôi phục hoàn toàn thính giác, người dùng phải đối mặt với một số bất tiện như tháo thiết bị khi tắm, sạc pin...
Để khắc phục thực trạng này, Giáo sư Ana Belén Elgoyhen chia sẻ về phương pháp vận chuyển gene đến tai trong thông qua virus để giúp người bệnh mất thính lực.
Bằng cách cung cấp một phiên bản chức năng của gene OTOF - gene đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tín hiệu thính giác từ tai đến não - thính lực của bệnh nhân được cải thiện đáng kể. Gene OTOF được đưa vào cơ thể thông qua việc tiêm vào màng đáy ốc tai bằng virus.
"Phương pháp này triển khai thử nghiệm lâm sàng 2-3 năm qua, được xem là bước ngoặt trong điều trị mất thính lực. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn cần theo dõi trong tương lai và cần mở rộng thử nghiệm lâm sàng", Giáo sư Ana Belén Elgoyhen nói thêm.
Liệu pháp thực khuẩn thể trong ức chế tế bào ung thư
Giáo sư Pascale Cossart - Viện Pasteur Paris (Pháp), cho biết, tình trạng kháng kháng sinh trên toàn cầu đang ảnh hưởng lớn ở các nước Nam Á, châu Phi, Úc, châu Á.
"Kháng kháng sinh được coi là một trong những mối đe dọa sức khỏe toàn cầu lớn nhất hiện nay. Nếu không có biện pháp can thiệp, ước tính đến năm 2050, siêu vi khuẩn kháng thuốc có thể gây ra hàng triệu ca tử vong mỗi năm, vượt qua cả bệnh ung thư", bà Cossart nói.

Giáo sư Pascale Cossart trình bày bài thuyết trình với chủ đề "Cuộc chiến chống kháng kháng sinh: Liệu pháp thực khuẩn thể như một giải pháp tiềm năng".
Thông qua việc tạo ra mô hình chuột biến đổi gene, bà thúc đẩy các nghiên cứu in vivo (nghiên cứu trên các cơ thể sống), khám phá những cơ chế điều hòa mới trong vi khuẩn, và tiên phong trong lĩnh vực biểu sinh học và nhiễm trùng.
"Khi các kháng sinh đều thất bại, đây là liệu pháp đặc biệt và đang được nhiều nước ở châu Âu như Pháp, Bỉ, Bồ Đào Nha, Mỹ... áp dụng. Khác với liệu pháp kháng kháng sinh, khi dùng liệu pháp này, số thực khuẩn thể tăng lên để tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên, chúng ta cần tìm ra tạp chất gây viêm nhiễm trong thực khuẩn thể", nữ Giáo sư nói.
Cũng chia sẻ về liệu pháp phage (thực khuẩn thể) trong chẩn đoán và điều trị bệnh với phần chia sẻ về "Virus chống ung thư: Triển vọng đột phá của liệu pháp thực khuẩn thể", Giáo sư Chuanbin Mao - Đại học Trung văn Hồng Kông (Trung Quốc), cho biết, liệu pháp này cũng hiệu quả trong điều trị ung thư.
Theo phương pháp này, các nhà khoa học sẽ điều chỉnh gene thay đổi protein từ bên ngoài, đưa gene này vào trong phage. Khi phát hiện tế bào ung thư, các phage sẽ sinh sôi từ đó tiêu diệt vi khuẩn.
"Phương pháp này ức chế sự sinh trưởng của tế bào ung thư theo thời gian. Chúng tôi thử nghiệm và thấy kích thước khối u giảm theo thời gian", ông Chuanbin Mao nói.
Giáo sư khẳng định, việc sử dụng phage không chỉ hiệu quả trong điều trị nhiễm khuẩn gây ra bởi vi khuẩn theo thời gian mà còn trong chẩn đoán và điều trị ung thư. Xa hơn, phương pháp này được kết hợp với liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư để nâng cao hiệu quả của liệu pháp miễn dịch.















