Xã hội

[Tổng thuật] Phiên 1 VIF 2026: Bức tranh Vĩ mô 2026 – Toàn lực cho tăng trưởng

Phiên thảo luận này sẽ tập trung vào các chủ đề chính xoay quanh: Triển vọng kinh tế 2026, kinh tế vĩ mô và tác động đến các kênh đầu tư; Động lực tăng trưởng cho năm 2026; Biến động quốc tế và các tác động đến kinh tế Việt Nam; Dòng vốn 2026 sẽ chảy về đâu và gợi ý chiến lược cho nhà đầu tư và doanh nghiệp. 

Cùng đến với những diễn giả của phiên thảo luận số 1: "Bức tranh Vĩ mô 2026 – Toàn lực cho tăng trưởng" thuộc Diễn đàn Đầu tư Việt Nam 2026.

  • Host: Bà Trịnh Quỳnh Giao - Tổng Giám đốc CTCP Quản lý Quỹ PVI (PVI AM) 

  • Ông Sacha Dray - Chuyên gia kinh tế, World Bank Việt Nam

  • TS. Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam

  • Ông Đặng Văn Thành - Chủ tịch Tập đoàn TTC

  • TS. Lê Anh Tuấn - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Quản lý Quỹ đầu tư Dragon Capital Việt Nam (DCVFM)

 Thảo luận

 Toàn cảnh phiên 1. (Ảnh: Ban tổ chức).

Theo ông/bà, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang chịu tác động mạnh từ các chính sách thuế của Mỹ và xu hướng nới lỏng tiền tệ của các Ngân hàng Trung ương, triển vọng tăng trưởng của Việt Nam năm 2026 sẽ như thế nào? Liệu mục tiêu tăng trưởng 10% có khả thi và động lực chính để đạt được sẽ đến từ đâu?

TS. Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam:

Nhìn vào năm 2026 thì cũng cần phải xem lại quá trình phát triển của chúng ta ít nhất trong 5 năm vừa qua. Có những thời điểm chúng ta gặp những khó khăn vô cùng lớn - từ nội lực của nền kinh tế đến tác động của yếu tố bên ngoài, của tình hình toàn cầu.

Song, chúng ta cũng đã vượt qua được những giai đoạn hết sức gian nan như vậy, đặc biệt là sau đại dịch Covid-19, rồi đến những cuộc khủng hoảng kinh tế nhỏ trên thế giới đã tác động trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam.

 TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam. (Ảnh: BTC).

Tuy nhiên, có thể thấy rằng chúng ta đã có những giai đoạn, những năm đạt tốc độ tăng trưởng trên 8%. Liên tục trong thời gian vừa qua, chúng ta vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng từ 6,5% đến gần 7%. Điều này cho thấy năng lực nội sinh của nền kinh tế đã được gia tăng mạnh mẽ.

Sự ổn định về kinh tế vĩ mô, chính trị, niềm tin của người tiêu dùng trong nước, cũng như của các nhà đầu tư và thị trường quốc tế đối với nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam là những nền tảng quan trọng để chúng ta tin tưởng vào triển vọng tăng trưởng tốt hơn trong năm 2026 và những năm tiếp theo.

Tôi không bình luận về con số tăng trưởng trên 10%, nhưng tôi tin rằng tốc độ tăng trưởng của chúng ta năm nay có thể cao hơn năm ngoái và năm 2026 sẽ tăng trưởng tốt hơn nữa.

Năm nay, như chị Giao đã đề cập, chúng ta gặp khá nhiều khó khăn ngay từ những tháng đầu năm - từ thị trường toàn cầu cho đến vấn đề vốn đối ứng và cả những rủi ro treo lơ lửng đối với nền kinh tế cũng như từng doanh nghiệp. Dù vậy, chúng ta vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng trên 7% trong thời gian vừa qua. Đây là niềm động viên rất lớn đối với thị trường và cộng đồng doanh nghiệp.

Tuy nhiên, hãy nhìn vào các con số cụ thể. Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào thị trường toàn cầu, nhưng chúng ta vẫn đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu ấn tượng trong năm nay.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, nhiều thị trường vẫn chật vật phục hồi, chúng ta vẫn có khả năng đạt tổng kim ngạch xuất nhập khẩu khoảng 800 - 850 tỷ USD. Đây là một kỷ lục mới của nền kinh tế. Điều này cho thấy niềm tin của các nhà nhập khẩu nước ngoài đối với hàng hoá và năng lực sản xuất của Việt Nam vẫn rất mạnh mẽ.

Bên cạnh đó, khả năng phục hồi sản xuất và đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế toàn cầu cũng được củng cố rõ rệt. Tôi cho rằng yếu tố đầu tiên hỗ trợ cho tăng trưởng năm 2026 sẽ là sự mở rộng chính sách tiền tệ của nhiều quốc gia, tạo điều kiện cho sự phục hồi kinh tế toàn cầu, đặc biệt là ở thị trường Mỹ. Đây sẽ là một trợ lực quan trọng giúp chúng ta có tốc độ tăng trưởng tốt hơn.

Thêm vào đó, căng thẳng thương mại toàn cầu, ít nhất là giữa Việt Nam và một số nền kinh tế lớn, cũng đang dịu lại. Đặc biệt, trong tuần vừa qua, chúng ta đã chứng kiến những bước tiến mạnh mẽ trong việc bình thường hoá quan hệ thuế giữa Việt Nam và Mỹ. Đây là một yếu tố sẽ đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng thương mại của Việt Nam năm tới.

Một động lực quan trọng khác là xuất khẩu được kỳ vọng sẽ tiếp tục duy trì tốt trong năm tới.

Thứ hai, về đầu tư công, chúng ta tin tưởng rằng năm nay tốc độ giải ngân sẽ cao hơn so với năm ngoái, qua đó đóng góp trực tiếp cho tăng trưởng, tạo dư địa và không gian phát triển mới cho nền kinh tế.

Nhiều công trình trọng điểm được đưa vào khai thác trong năm nay và năm tới sẽ tiếp tục mở ra động lực tăng trưởng mới, đồng thời thúc đẩy tổng cầu. Bên cạnh đó, tình hình thu ngân sách ổn định và trần nợ công vẫn trong giới hạn cho phép, nên hoàn toàn có thể kỳ vọng đầu tư công năm 2026 sẽ duy trì ở mức cao, thậm chí cao hơn năm nay.

Thứ ba là đầu tư khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là đầu tư tư nhân và FDI. Đây là yếu tố vô cùng quan trọng trong tổng cầu của nền kinh tế. Với việc ban hành Nghị quyết 68, khu vực tư nhân đã cho thấy sự hứng khởi mới. Nhiều dự án trọng điểm có sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân đang được triển khai, trong khi nhiều dự án vướng mắc pháp lý cũng đang được tháo gỡ.

Nguồn vốn FDI đăng ký có thể không cao bằng năm ngoái, nhưng vốn giải ngân năm nay lại tăng mạnh. Cùng với sự gia tăng số lượng doanh nghiệp đăng ký mới và quay trở lại hoạt động trong 9 tháng đầu năm. Đây là tín hiệu rất tích cực cho thấy đầu tư tư nhân đang phục hồi mạnh mẽ.

Một yếu tố khác là tiêu dùng trong nước. Mặc dù kinh tế khó khăn, nhưng tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ hàng hoá vẫn duy trì tốc độ tăng từ 9 - 11%. Tiêu dùng của 100 triệu dân Việt Nam chính là một động lực vô cùng quan trọng cho tăng trưởng trong tương lai.

Thị trường Việt Nam, với quy mô dân số hơn 100 triệu người, hiện đứng thứ hai hoặc thứ ba ở Đông Nam Á và thứ 15 trên thế giới - một thị trường rất lớn, không hề nhỏ bé. Thị trường này đang được củng cố nhờ thu nhập khả dụng của người dân tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế nói chung.

Những yếu tố này, cùng với sự ổn định chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô và niềm tin của doanh nghiệp, nhà đầu tư, cho phép chúng ta tin tưởng rằng tăng trưởng năm 2026 sẽ cao hơn năm 2025.

Tuy nhiên, mức tăng trưởng cao đến đâu còn phụ thuộc vào cách chúng ta ứng phó với các rủi ro: rủi ro chính sách tiền tệ, lạm phát, nợ công, cũng như mô hình tăng trưởng còn phụ thuộc nhiều vào vốn và tín dụng. Đây là những vấn đề chúng ta cần tính toán kỹ trong quá trình điều hành chính sách, để xác định đúng vai trò của từng chủ thể, từ Nhà nước đến doanh nghiệp, trong quá trình tăng trưởng.

Dư địa chính sách hiện nay có cho phép NHNN tiếp tục hướng nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng không? Và đâu sẽ là rủi ro đáng chú ý nhất với tỷ giá và lãi suất trong năm tới?

Ông TS. Lê Anh Tuấn - Tổng Giám đốc Dragon Capital:

Đối với tôi rủi ro về lạm phát hiện nay là thấp. Chúng ta đang lo tiêu dùng chưa đi lên thì lấy gì để lạm phát.Cái thứ hai là chính sách tiền tệ vẫn có một mức độ rủi ro nhất định liên quan đến tỷ giá.

Nền kinh tế của chúng ta bị đô la hóa khá cao, với lượng dự trữ ngoại tệ và dự trữ vàng lớn, nên tỷ giá tác động rất mạnh đến chính sách tiền tệ. Chính vì vậy, lãi suất hiện nay có xu hướng nhích lên, dù mặt bằng lãi suất toàn cầu đang đi xuống.

Nếu nói về chính sách tiền tệ trong năm 2026, tôi cho rằng, chừng nào tỷ giá còn ổn định thì chính sách tiền tệ vẫn nên duy trì xu hướng nới lỏng — còn nới lỏng đến mức nào thì chưa nên phán đoán trước.

 Ông TS. Lê Anh Tuấn Tổng Giám đốc Dragon Capital. (Ảnh: BTC).

Ông Sacha Dray - Chuyên gia kinh tế, World Bank Việt Nam:

Việt Nam đang có những tiến bộ rất là tích cực và chuyển biến cũng rất là mạnh mẽ ở trong tình hình kinh tế. Vốn đăng ký kinh doanh đã tăng đến 8,2% so với năm ngoái và tỷ lệ này đang tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực.

Đồng thời, đây cũng sẽ là một kỷ lục của Việt Nam trong suốt một thập kỷ vừa qua, ngoại trừ giai đoạn mà chúng ta phục hồi lại sau Covid-19. Ở thời điểm đầu năm, nếu mà chúng ta nhìn thì câu chuyện vô cùng khác với bây giờ, bởi vì tình huống toàn cầu cũng rất là phức tạp, địa chính trị cũng khó khăn.

Lúc đó với chính sách thuế đối ứng của Chính phủ Mỹ thì với xuất khẩu cũng rất lo ngại. Nhưng đến bây giờ thì đã có rất là nhiều chính sách được đưa ra, được thực tiễn hóa. Chúng ta cũng thấy xuất khẩu bây giờ đã phục hồi lại một cách vô cùng bền bỉ.

Chúng ta đang có một sự tăng trưởng đến 23% so với cùng kỳ năm ngoái và đạt khối lượng xuất khẩu đến thị trường Mỹ là 113 tỷ USD. Đây cũng là con số kỷ lục trong lịch sử xuất khẩu của Việt Nam. Do đó thì đây là những cái tình hình chung về toàn cầu trước khi mà tôi muốn nói đến những cái tác động kinh tế cụ thể của Việt Nam. 

Chính sách thuế quan của Mỹ đã ảnh hưởng lớn đến các đơn vị xuất khẩu của Việt Nam. Chi phí xuất khẩu và nhập khẩu đều bị tăng lên. Mặc dù người mua của Mỹ chịu chi phí cao hơn lên tới 51%, còn người xuất khẩu khẩu chịu 49% chi phí. Giá cả tại Mỹ tăng không dừng từ tháng 4 đến nay. 

Vấn đề thứ hai cũng xoay quanh vấn đề thuế quan này là cơ chế thuế quan không đồng đều của Mỹ đối với các quốc gia, dao động từ mức 40% lúc trước còn bây giờ có thể điều chỉnh đến 15% và ảnh hưởng không chỉ đến những nhà xuất khẩu của Việt Nam mà còn nhiều quốc gia khác.

Cái cơ cấu hiện tại lúc trước chúng ta sẽ thấy là thuế áp dụng 10% đồng đều trên toàn cầu cho tất cả các sản phẩm, nhưng bây giờ đã có phân biệt theo quốc gia, theo khu vực và chưa kể nhóm ngành nghề đặc biệt cũng sẽ có những chính sách thuế khác nhau.

Ví dụ như những cái kim loại, nhôm thì sẽ có chính sách khác, hoặc là đối với những cái sản phẩm đặc thù như là sản phẩm công nghệ cao thì lại được những giảm đặc biệt. Tóm lại, chúng ta sẽ đang có một cái thuế có hiệu lực đối với các hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ là 15,3% và mức này cũng khá tương đồng với các quốc gia khác trong ASEAN.

Ngoài ra thì nó vẫn giữ được một cái vị thế tốt cho Việt Nam bên cạnh Trung Quốc và Ấn Độ. Đây vẫn sẽ là một nơi lắp ráp và xuất khẩu hàng hóa tốt sang thị trường Mỹ.

Vấn đề thứ ba mà tôi muốn chia sẻ ở đây là sự can thiệp vô cùng kịp thời cũng như là mạnh mẽ của Nhà nước và Chính phủ để có thể hỗ trợ cho doanh nghiệp trong bối cảnh mọi thứ đang rất là khó đoán.

Thời điểm đầu năm, cả thị trường quan ngại về thuế quan, chưa kể Việt Nam là quốc gia xuất khẩu lớn thứ ba sang Mỹ. Do đó, với chính sách thuế quan rất bất ổn trên nền kinh tế. Nhưng với chính sách của Chính phủ, những lo lắng trong nền kinh tế giảm đi rất nhiều,  thể hiện rõ ràng qua tăng trưởng bền bỉ của GDP từ đầu năm đến nay cũng như sự phục hồi của chỉ số sản xuất công nghiệp và xuất khẩu. 

 Ông Sacha Dray - Chuyên gia kinh tế, World Bank Việt Nam. (Ảnh: BTC).

Vậy khía cạnh nào sẽ giúp chúng ta tăng trưởng và phát triển tốt hơn trong giai đoạn sắp tới? Có thể thấy, với những chính sách hỗ trợ hiện tại của nhà nước đã giúp cho chúng ta giảm được mức độ lo âu ở trong nền kinh tế và từ đó có thể bình thường hóa lại đường quan hệ thương mại. Và những điều đó đã giúp đỡ cho nền kinh tế phát triển rất tốt rồi, mảng xuất khẩu cũng phục hồi tốt trong thời gian tới. 

Một điều tiếp theo tôi có thể thấy hiện tại chúng ta vẫn còn mức thuế đối ứng 40% đối với những hàng hóa quá cảnh và khi chúng tôi phân tích ở trong World Bank thì chúng tôi thấy nó ảnh hưởng đến 17% doanh thu của các mặt hàng.

Do đó sẽ có những cái mặt hàng chúng ta đang xuất khẩu có những cái mặt hàng rất trọng điểm của mình ví dụ như nông sản hay là hàng may mặc thì đây sẽ là những cái mảng mà chúng ta cần phải cân nhắc và nghiên cứu kỹ về cái cơ chế xuất khẩu để có thể giảm thiểu được những tác động đối với chi phí và một phần quan trọng nữa là cần phải cân đối giữa việc tăng cái tỷ trọng của hàng hóa và giá trị tiêu dùng nội địa.

Và một vấn đề tôi cũng nhìn thấy ở đây giúp cho thị trường có thể phát triển được rất mạnh nữa, đó là Việt Nam có rất là nhiều FTA, nhưng mà hiện tại chúng ta chưa thực sự tối ưu hết tất cả những FTA này cho các mặt hàng và các cái mối quan hệ của mình ở một số cái thị trường quan trọng như là châu Á hoặc là EU. Chúng ta cũng cần nghiên cứu sâu sắc hơn.

Và nói đến chính sách tiền tệ, hiện tại chúng ta cũng thấy tỷ lệ lãi suất của Fed đang có mức tăng, từ đó ảnh hưởng đến lạm phát. Và khi mà lạm phát tăng như vậy, nó sẽ gây ra hiệu ứng lần thứ hai lên đến khả năng tiêu dùng của thị trường Mỹ bởi chi phí được tăng lên trên hàng hóa tiêu dùng nên cũng sẽ ảnh hưởng đến cái hoạt động của nền kinh tế Việt Nam.

Còn đối với chính sách tiền tệ của Việt Nam, lãi suất của Fed đang có xu hướng tăng và có thể ảnh hưởng đến cả lãi suất ở Việt Nam. Tuy nhiên Việt Nam cũng đã có những chính sách để mà có thể kiểm soát được cái dòng vốn và cả tiền tệ. Nhưng điều này không hề dễ dàng, bởi vì trong tình hình hiện tại mọi thứ rất là khó đoán.

Về xu hướng của Fed thì chúng ta cũng không đoán được và tình hình địa chính trị thì cũng khá bất ổn. Có một điều tôi thấy khá là tốt ở Việt Nam đó là chúng ta đã có một nguồn dự trữ ngoại tệ có thể hỗ trợ cho việc bình ổn này và đây là một yếu tố rất là quan trọng ở thời điểm hiện tại. Một cái nữa mà tôi muốn nhấn mạnh đó là cái sự linh hoạt của những cái bộ công cụ liên quan đến chính sách tiền tệ và lãi suất.

Với những cái sự linh hoạt như vậy thì nó có thể thích ứng được tốt hơn trước những biến động của toàn cầu và tôi thấy NHNN đang đi theo đúng hướng và cũng đang có những cái chính sách rất tốt để có thể hỗ trợ cho nền kinh tế thích ứng được những điều này.

Với vai trò là những người làm việc tại các định chế tài chính quốc tế, theo ông/bà, trong 1–3 năm tới, liệu có xu hướng đầu tư chủ đạo nào mà nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm tới thị trường Việt Nam hay không? Và những yếu tố nào có thể giúp Việt Nam giữ chân dòng vốn ngoại và thu hút làn sóng đầu tư mới?

TS. Lê Anh Tuấn - Tổng Giám đốc Dragon Capital:

Câu hỏi đầu tiên cần đặt ra là vì sao tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu Việt Nam của nhà đầu tư nước ngoài lại đang ở mức thấp nhất trong khu vực - chỉ khoảng 14,5%, trong khi con số này ở nhiều thị trường khác dao động từ 20% đến 40%.

Điều này diễn ra dù các nước đó còn đối mặt với nhiều bất ổn và tăng trưởng kinh tế thấp hơn Việt Nam.Câu hỏi thứ hai là vì sao trong năm 2024, khối ngoại lại bán ròng tới 1 tỷ USD - một con số rất lớn, và hiện nay chỉ trong một tháng đã bán tới 1,6 tỷ USD. Nguyên nhân là do dư âm của năm 2023, khi cả yếu tố nội tại và yếu tố kinh tế bên ngoài cùng ảnh hưởng, khiến khối ngoại bán ròng mạnh.

Bước sang năm 2025, bối cảnh toàn cầu chịu tác động từ các thay đổi chính trị lớn, chẳng hạn như việc ông Trump trở lại cương vị lãnh đạo, dẫn đến cách hoạch định chính sách theo hướng ‘top-down’. Việt Nam nằm trong khu vực được đánh giá có mức độ rủi ro nhất định.

Năm 2024, chúng ta có mối liên hệ chặt với Trung Quốc - nơi ghi nhận dòng vốn rút mạnh (outflow), khiến Việt Nam cũng bị ảnh hưởng lan tỏa. Trong khi đó, thị trường mới nổi nội địa của chúng ta lại tăng 20 - 30% từ đầu năm, khiến dòng vốn nước ngoài nhìn thấy mức tăng đó lại có xu hướng rút ra.

Tôi cho rằng năm 2026 sẽ là thời điểm thị trường "reset" lại, khi mức lợi suất (return) của Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới được thiết lập lại ở mặt bằng mới.

Hiện tại, dự trữ ngoại hối của chúng ta vào khoảng dưới 80 tỷ USD, tương đương ba tháng nhập khẩu. Từ đầu năm đến nay, khối ngoại đã rút gần 5 tỷ USD khỏi thị trường cổ phiếu, và nếu tính trong 5 năm qua, con số này lên tới khoảng 12 tỷ USD. Nếu không có sự rút vốn này, dự trữ ngoại hối của Việt Nam sẽ cao hơn nhiều, và sự ổn định vĩ mô cũng được củng cố tốt hơn.

Chính vì vậy, có thể nói thị trường tài chính Việt Nam hiện đang bị đánh giá thấp. Nó vẫn được quan tâm, nhưng chưa được quan tâm đúng mức so với tiềm năng thực sự của mình.

Về chính sách tài khoá, đặc biệt là đẩy mạnh đầu tư công, nhà đầu tư luôn trăn trở liệu hiệu quả của đầu tư công như thế nào?

TS. Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam:

Liên quan đến chính sách tài khóa, đặc biệt là vấn đề đầu tư công, chúng ta thấy rằng sau mỗi cuộc khủng hoảng, sau mỗi giai đoạn khó khăn của nền kinh tế, theo quy luật thông thường của kinh tế học, đầu tư công luôn đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy tổng cầu của nền kinh tế.

Đối với Việt Nam, khi chúng ta đang trong quá trình chuyển dịch sang một mô hình tăng trưởng mới, thì nhu cầu về cơ sở hạ tầng, về việc mở rộng không gian kinh tế là vô cùng cần thiết. Do đó, đầu tư công vẫn được kỳ vọng là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Tuy nhiên, tôi cho rằng về dài hạn, chúng ta không nên đẩy quá mạnh nguồn vốn đầu tư công, vì điều đó tiềm ẩn một số rủi ro.

Thứ nhất, đầu tư công quá lớn có thể tạo ra hiệu ứng “chèn lấn” đầu tư tư nhân, gọi là crowding out the private sector investment,  tức là làm giảm bớt động lực đầu tư của khu vực tư nhân.

Thứ hai, khi đầu tư công tăng, Nhà nước buộc phải tăng thu ngân sách hoặc vay nợ nhiều hơn. Mà thu ngân sách tăng thì đồng nghĩa với việc gánh nặng thuế, các nghĩa vụ tài chính khác cũng gia tăng, tạo áp lực lên khu vực kinh tế tư nhân. Mỗi doanh nghiệp, mỗi người đóng thuế đều có thể cảm nhận được phần nào áp lực này.

Vì vậy, đầu tư công sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng, nhưng trong tương lai, chúng ta kỳ vọng đầu tư tư nhân sẽ dần thay thế và đảm nhiệm vai trò mạnh mẽ hơn, đặc biệt trong các dự án hạ tầng mà khu vực tư nhân có thể tham gia.

Đầu tư công chỉ nên tập trung vào những công trình không hấp dẫn hoặc chưa đủ hấp dẫn đối với khu vực tư nhân. Đồng thời, đầu tư công cần đóng vai trò là “vốn mồi”, cùng với khu vực tư nhân, đầu tư vào những dự án hạ tầng lớn, theo hình thức PPP hoặc các mô hình hợp tác khác.

Như vậy, vai trò của đầu tư công trong tương lai sẽ là chất xúc tác, tạo động lực và thúc đẩy mạnh mẽ hơn đầu tư tư nhân. Chúng ta vẫn coi đầu tư công là một động lực quan trọng, nhưng cần hướng đến hiệu quả cao hơn, tập trung vào những công trình có khả năng tạo ra sự thay đổi tình thế và mở ra những không gian tăng trưởng mới mà trước đây chúng ta chưa khai thác.

Với vai trò là người đứng đầu một tập đoàn tư nhân lớn hoạt động đa ngành, ông nhìn nhận như thế nào về tác động và hiệu quả của các chính sách kinh tế trong thời gian qua?

Theo cảm nhận của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân, môi trường đầu tư – kinh doanh hiện nay đã thực sự tạo điều kiện thuận lợi để khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn, đóng góp nhiều hơn cho tăng trưởng kinh tế chưa?

Và theo ông, đâu là những yếu tố cần tiếp tục được cải thiện để doanh nghiệp tư nhân có thể “bứt tốc” trong giai đoạn 2026–2030, khi Việt Nam đang hướng đến các mục tiêu tăng trưởng hai con số?

 Ông Đặng Văn Thành – Chủ tịch Tập đoàn TTC. (Ảnh: BTC).

Ông Đặng Văn Thành – Chủ tịch Tập đoàn TTC:

Chỉ còn 56 ngày nữa là kết thúc năm tài chính 2025, cũng là lúc tổng kết chiến lược 2021 - 2025. Cảm ơn Ban Tổ chức đã tạo điều kiện cho tôi tham dự buổi hôm nay để chúng ta bắt đầu cho giai đoạn mới 2026 - 2030. 

Riêng Việt Nam phải nói rằng đang rất hào hứng. Như hồi nãy anh Hiếu có nói, chính sách không chỉ cần được ban hành kịp thời mà còn phải tương thích, đòi hỏi sự khẩn trương. Thật sự có thể nói rằng, 2026 là năm tiền đề cho giai đoạn 2026 - 2030.

Theo tôi, có một khái niệm thế này, tỷ giá, về lạm phát, về lãi suất – nó giống như một cái “tam tiểu luận” Nó cứ lòng vòng như thế này.

Cho nên, đối với doanh nhân như tôi, tôi có thể giản lược lại, hết sức lạc quan một chút. Tôi có thể lạc quan bởi vì bất cứ quy luật đào thải nào, trong một chu kỳ nào đó, ngành nghề nào cũng có người thịnh, người suy. 

Chúng ta xem tỷ giá, lạm phát, lãi suất như một lưu đồ để phát ra chiến lược và dùng chiến thuật để điều hành chiến lược đó. Đó là điều mà những doanh nhân có trách nhiệm với xã hội phải làm.

Giống như, các hiệp định thương mại song phương, đa phương – báo cáo với Nhà nước và Chính phủ – cũng là doanh nhân triển khai hết. Đúng không? 

Nhà nước sẽ tạo môi trường, còn phía mình phải nhận thức được để hội nhập vào nền kinh tế thế giới – điều đang đòi hỏi cực kỳ khó khăn. Người ta hay nói thời nay là kỷ nguyên số, thời đại 4.0, nền kinh tế tri thức, tất tần tật… thì mình phải làm gì đây? Câu hỏi đó không còn là câu hỏi nữa, mà bản thân doanh nhân phải đối diện với nó.

Giống như thời anh Trương Đình Tuyển, khi chúng ta chuẩn bị bước vào thềm WTO, báo, đài cũng phỏng vấn tôi – khi đó tôi đang là Chủ tịch Sacombank. Họ hỏi tôi, tôi trả lời: “Đã là doanh nhân rồi, cái này mới đã!”. Đúng không? Không lẽ mình đi bán giải mà đi vào chợ xây dựng để bán – nó độc quyền đi chăng nữa thì cũng không làm được. Cái đó mới thực sự là vai trò của doanh nhân.

Hôm nay, Nghị quyết 68 là một sự công nhận, động viên, cổ vũ. Anh Hiếu cũng vừa nói, Nghị quyết 198 là thể hiện hóa, thực hiện hóa Nghị quyết 68. 

Với tinh thần đó, hôm nay tôi thay mặt cho cộng đồng doanh nhân cảm ơn quý vị đại biểu, bởi các anh, chị đã làm việc hết sức khẩn trương. Hồi nãy tôi nhìn cái bản đồ anh nói – hơi trừu tượng một chút – nhưng thực chất đó là điều chúng tôi rất quan tâm

Thực ra thì không có 68 hay 198 gì, mà là với một sứ mệnh vì xã hội thôi. Người thì làm khoa học, kẻ thì làm chính trị, người thì làm mô phạm, người thì làm doanh nhân. Hôm nay được công nhận như vậy, chứ đúng ra chúng tôi vẫn phải làm. Nó có một cái gì đó gọi là sứ mệnh.

Cho nên, quay lại vấn đề năm 2026, tôi cũng xin nói để chúng ta cùng gia cố, củng cố thêm những động lực và điều kiện cụ thể. 

vừa rồi, sau đại dịch Covid, khó khăn chồng khó khăn, chúng ta đã có nhiều chính sách mà tôi đánh giá là chủ yếu kích cung. Ví dụ như giảm thuế VAT, giảm lãi suất, gia hạn nợ… thực sự chỉ là kích nguồn cung. Vấn đề là làm sao kích được nguồn cầu?

Năm 2026, là năm mà tôi cho rằng đầu tư công sẽ tiếp tục đóng vai trò đầu kéo. Nhưng nó chỉ mang tính đoạn kỳ thôi anh à. Thực chất, mọi thứ phải trở về bản chất đúng nghĩa của một nền kinh tế.

Quý vị nhìn miền Nam bây giờ xem – giống như một đại công trình: nào là Vành đai 3, rồi cao tốc, tất cả các dự án lớn. Đó là một sự nỗ lực rất lớn. Cho nên, các chuyên gia kinh tế, tài chính hôm nay cần lưu ý điều này để thấy rằng, tuy có thể chen giữa công và tư, nhưng tôi tin rằng đó chỉ là đoạn kỳ – cái đầu kéo tạm thời. Cuối cùng, các doanh nhân, các anh phải làm sứ mệnh thực hiện các hiệp định song phương, đa phương – không chỉ vì đất nước mà còn vì chính đơn vị của mình.

Tôi nghĩ rằng chúng ta phải tập trung, quán triệt tinh thần đó. Có thể nói năm 2025 là năm tổng kết của cả năm 2025 và giai đoạn 2021-2025, trong một bối cảnh như vậy. Quý vị biết, riêng mảng tiền tệ – nếu có thời gian tôi sẽ nói thêm – đặc biệt là vàng, quý vị thấy rồi, biến động rất mạnh. Cho nên năm 2026, tôi nghĩ chúng ta chuẩn bị bước qua một đường đua mới.

Một đường đua hoàn toàn mới. Hiện nay chưa chuyên gia nào dám kết luận giá USD sẽ bao nhiêu, hay dự báo lãi suất ra sao. Nhưng chắc chắn nó sẽ có một điểm xuất phát mới – đó là quy luật. Có thể 10 năm, 15 năm, 50 năm, nó đều thay đổi theo chu kỳ. Tôi cho rằng đây là chu kỳ 50 năm. Nếu nhìn lại 10-15 năm trước, ta sẽ thấy sự thay đổi đó hết sức quy luật và tiến bộ. Quy luật đào thải chính là quy luật phát triển.

Nếu một doanh nghiệp không tuân thủ, sẽ bị loại bỏ. cốt lõi của thương trường là gì? Là quản trị, kiểm soát và điều hành. Đó là nền móng của tất cả. 

Các doanh nhân trẻ hôm nay, tôi mong các bạn hãy bám chặt vào điều này để tự tin hơn. Nói đến phát triển bền vững, chúng ta phải cùng Chính phủ, cùng đội ngũ cán bộ, công nhân viên và cùng các nhà đầu tư – phải có trách nhiệm với nhà đầu tư, với đồng vốn – để phát triển, dần dần có đủ điều kiện kế thừa FDI.

FDI là tất yếu, quốc gia nào cũng cần. Tôi từng mời Dominic vào, mời IFC vào – mở hết. Và tôi nói thẳng, tiêu chí tôi chọn khi mời họ đầu tư là: “Phải hiểu về Việt Nam cái đã. Chúng tôi cần tiền, nhưng không chỉ cần tiền thuần túy, mà còn cần kỹ thuật của các anh.”

Để đến một lúc nào đó, doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện để kế thừa. Đó là một trong những sứ mệnh của doanh nhân mà Nghị quyết 68 kỳ vọng, được triển khai bởi Nghị quyết 198 của Chính phủ.

Cho nên, rút lại: người ta nói về “trái đất xanh”, “tín dụng xanh”, tất cả đều xanh. Nhưng tôi chỉ rút lại một câu: chúng ta phải “xanh” từ nội tại của mình. Cái “xanh” vô hình đó mới là cái xanh thực của tất cả cái xanh khác, không cần đối phó nữa.

Thứ hai, nói về kỷ nguyên số, thời đại số, thì điều tôi muốn chia sẻ là: chúng ta phải số hóa bản thân mình. Nếu không “xanh” nội tại, không “số hóa” bản thân, thì tất cả những điều kia chúng ta chỉ nghe thôi, chứ không đưa được vào cuộc sống.

 Ông Đặng Văn Thành – Chủ tịch Tập đoàn TTC. (Ảnh: BTC).

Theo các ông thì việc đưa vàng trở lại thành một kênh đầu tư huy động vốn chính thức có khả thi không trong giai đoạn 2026-2030 và cần cơ chế nào để chuyển hóa nguồn lực này thành vốn phát triển mà vẫn bảo đảm được ổn định vĩ mô và tránh rủi ro đầu cơ ạ?

TS. Lê Anh Tuấn -Tổng Giám đốc Dragon Capital:

Vàng là một đề tài rất thú vị nhưng cũng rất khó, mang tính cực kỳ kỹ thuật nếu muốn làm đúng. Tôi xin chia sẻ qua ba mô hình trên thế giới.

Thứ nhất, ở Mỹ năm 1933, Chính phủ đã thu hồi toàn bộ vàng trong dân, nhưng Việt Nam mình không thể áp dụng được mô hình này, bởi khi đó Mỹ đang trong thời kỳ giảm phát – một điều kiện đặc thù giúp họ thực hiện chính sách đó.

Còn Việt Nam hiện nay hoàn toàn khác. Thứ hai là mô hình của Ấn Độ – họ phát hành trái phiếu vàng và huy động được khoảng 150–200 tỷ USD phục vụ cho quốc sách.

Người dân thay vì mua vàng vật chất thì chuyển sang mua trái phiếu vàng. Cơ chế này nghe thì đơn giản nhưng thực ra khá ‘technical’, đòi hỏi hệ thống vận hành và giám sát chặt chẽ. Mô hình thứ ba là của Trung Quốc, nơi họ có cả sàn vàng vật chất và sàn vàng phi vật chất, cho phép giao dịch và chuyển đổi linh hoạt giữa hai hình thức này.

Tóm lại, để trả lời câu hỏi là có nên chuyển từ vàng vật chất sang vàng số hóa hay không, thì tôi cho rằng là nên. Tuy nhiên, làm như thế nào lại là câu chuyện cực kỳ phức tạp, và trong phạm vi của diễn đàn hôm nay, có lẽ không đủ thời lượng để bàn sâu về những khía cạnh kỹ thuật đó.

Ông Đặng Văn Thành – Chủ tịch Tập đoàn TTC:

Nói tới vàng, đây cũng là một kênh đặc trưng của Việt Nam và khu vực Á Đông nói chung. Tôi là Chủ tịch Câu lạc bộ Thương hiệu Việt. Trong quá trình sinh hoạt, có nhiều anh em hỏi tôi: “Tại sao trước đây những người lớn tuổi hay mua vàng, còn bây giờ lớp trẻ cũng mua vàng nhiều?” Tôi nói, không phải đâu, đó là hình thức trú ẩn.

Tập quán của người Việt Nam mình là mua vàng để làm trang sức, còn bây giờ thêm yếu tố trú ẩn tài sản. Qua thống kê quốc tế, người ta cũng thấy rằng lượng vàng nằm trong dân ở Việt Nam là rất lớn.

Gần đây tôi có nghe trên các phương tiện truyền thông nói về việc xem xét thành lập sàn vàng. Theo tôi, việc đầu tiên là cần rà soát lại Nghị định 24 – điều này rất đúng đắn. Mình không thể vẽ ra một cái vòng rồi tự đứng trong đó, trong khi nói mình đang vận hành theo kinh tế thị trường.

Về việc có nên thành lập sàn vàng hay không, theo góc nhìn cá nhân thì cần hết sức thận trọng. Thực ra, tôi có chia sẻ trong lúc trà đàm rằng: thị trường tài chính Việt Nam trước năm 2003 giống như con cua chỉ có một cái càng – đó là thị trường tiền tệ. Khi ấy, thị trường này gánh vác toàn bộ nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển từ cơ chế chỉ huy sang cơ chế thị trường.

Thời điểm đó rất rủi ro. Tôi khi ấy là Chủ tịch Sacombank, ngân hàng phải huy động nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn – một rủi ro lớn. Khi đó, mọi hoạt động vẫn vận hành theo Pháp lệnh Ngân hàng. Sau năm 2003, thị trường vốn ra đời, và lúc đó con cua mới có đủ hai càng để vận hành.

Thị trường tiền tệ có khả năng hoàn trả, trong khi thị trường vốn thì không có khái niệm hoàn trả – chỉ có khái niệm “đổi chủ”. Đó là nơi phát hành chứng khoán, nơi các doanh nghiệp cần tiếp cận để huy động vốn. Ở tất cả các nền kinh tế lớn, đây là kênh kết nối giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp.

Còn thị trường vàng, thực tế mà nói, không đóng góp thiết thực như thị trường vốn. Vấn đề là làm sao huy động được lượng vàng trong dân, với một chi phí hợp lý, để đưa vào dự trữ quốc gia.

Tôi cho rằng, việc huy động vàng trong dân để tích trữ, như trước đây, là không khả thi và rất rủi ro. Nhưng nếu chấp nhận một mức chi phí nhất định để chuyển nguồn vàng đó thành dự trữ quốc gia – thì đây là vấn đề cần được nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng.

Còn về giá vàng, đến nay có lẽ chúng ta không cần bàn quá sâu nữa, bởi xu hướng dịch chuyển là rõ. Do đó, nếu hỏi tôi, tôi cho rằng việc thành lập sàn vàng cần hết sức thận trọng.

Còn huy động vàng trong dân để chuyển hóa thành nguồn lực có lợi hơn cho đất nước thì nên làm – nhưng cần xác định phương thức phù hợp, và đây là điều cần sự đóng góp trí tuệ của các chuyên gia.

Trước đây, sau đại dịch Covid, chúng ta chỉ tập trung hỗ trợ cho “đầu cung”, nhưng “đầu cầu” trong năm 2026 rất là cần. như các vị vừa nói, trong cơ cấu đóng góp GDP, tiêu dùng là yếu tố rất quan trọng.

Vừa rồi, tôi cũng đã từng góp ý một lần, nhưng hôm nay xin nhắc lại: nên gia cố thêm cho năm 2026 để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng GDP đạt từ 9 đến 10%. Còn năm 2025 thì khoảng 8% hay hơn 8%, nhưng để đạt được 9–10% trong năm 2026 thì tính khả thi cần được củng cố thêm.

Như các chuyên gia và diễn giả đã nêu, tôi xin bổ sung thêm một đề xuất để giúp cho “tuần hoàn” kinh tế tốt hơn. Theo đó, các nhà hoạch định chính sách nên xem xét việc giảm thuế thu nhập cá nhân, nhưng giảm dưới hình thức phát voucher, chứ không phải giảm bằng tiền mặt.

Ví dụ, một người phải nộp 10 đồng thuế, thì giảm 30%, tức là chỉ nộp 7 đồng, còn 3 đồng còn lại được cấp dưới dạng voucher có thời hạn để họ sử dụng cho tiêu dùng. Việc này khác với phát tiền mặt, vì phát voucher có thời hạn sẽ kích thích chi tiêu, từ đó giúp dòng tuần hoàn kinh tế vận hành tốt hơn.

Như vậy, nếu trước đây chúng ta chỉ hỗ trợ cho “đầu cung”, thì nay đã đến lúc cần kích hoạt “đầu cầu”.

Ông/bà dự báo như thế nào về triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2026?

Kết quả khảo sát nhà đầu tư. (Ảnh: BTC).

TS. Lê Anh Tuấn - Tổng Giám đốc Dragon Capital: 

Tôi cho rằng tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2026 ở mức từ 8–10%. Nếu chỉ được nói một câu để khái quát quan điểm của mình, thì tôi cho rằng: "Tâm thế thì luôn lạc quan, nhưng hành động thì phải tính toán".

TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam:

Con số này cũng đã nói lên rất nhiều điều. Theo cách nhìn của tôi, đó chính là niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp vào triển vọng tăng trưởng kinh tế của chúng ta trong năm tới. Tôi nghĩ rằng niềm tin này sẽ sớm được chuyển hóa thành hành động cụ thể. Đó là những quyết định đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Đồng thời, niềm tin đó cũng sẽ lan tỏa đến khách hàng, mở rộng tiêu dùng và chi tiêu của doanh nghiệp cũng như của từng người tiêu dùng.

Tôi kỳ vọng điều này sẽ phần nào phản ánh thực tế của năm 2025. Chúng ta cũng kỳ vọng trong năm 2025, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp sẽ quay trở lại.

Chúng ta biết rằng thời gian vừa qua, lượng vốn chảy ra khỏi nền kinh tế qua kênh thị trường vốn là khá lớn. Tuy nhiên, điều đó cũng cho thấy rằng niềm tin của nhà đầu tư cho nguồn vốn sẽ quay trở lại bằng cách này hay cách khác.

 Các diễn giả trả lời câu hỏi. (Ảnh: BTC).

Tiếp tục cập nhật...


Diễn đàn Đầu tư Việt Nam 2026 (Vietnam Investment Forum 2026)

Ngày 4/11 tại TP HCM, Diễn đàn Đầu tư Việt Nam (VIF), do Trang TTĐT Tổng hợp VietnamBiz và Việt Nam Mới tổ chức, trở lại với loạt nội dung nóng: “Bức tranh vĩ mô – bất động sản – thị trường tài chính – chứng khoán: Con đường thịnh vượng của Việt Nam”.

Sự kiện quy tụ chuyên gia kinh tế, nhà hoạch định chính sách, lãnh đạo ngân hàng, các quỹ và hàng trăm nhà đầu tư, cùng phân tích triển vọng vĩ mô, chính sách, bất động sản, ngân hàng, tài sản số và chu kỳ mới của chứng khoán.

Trải qua nhiều mùa tổ chức, VIF đã khẳng định vị thế diễn đàn đầu tư số 1 Việt Nam, nơi kết nối tri thức và vốn đầu tư.

Website: https://vietnaminvestmentforum.vn

Tham gia khảo sát "Dự báo của bạn về năm 2026" để có cơ hội nhận vé mời đặc biệt từ Ban Tổ chức.

Mua vé ngay
Dự báo của bạn
về năm 2026

Các tin khác

Từ tháng 1/2026, thu nhập của nhà giáo tăng hay giảm?

Theo tính toán của nhiều giáo viên, thật bất ngờ, nếu chỉ quy định như dự thảo Nghị định về chế độ chính sách tiền lương và phụ cấp của giáo viên (dự kiến có hiệu lực từ 1/1/2026), thu nhập của nhà giáo không những không tăng mà còn giảm so với hiện nay.

Ấn Độ quay lưng với dầu Nga vì lệnh trừng phạt Mỹ: Cán cân năng lượng châu Á đổi hướng

Trước các lệnh trừng phạt mới của Mỹ nhằm vào các tập đoàn dầu khí lớn của Nga, các nhà máy lọc dầu Ấn Độ bắt đầu giảm mua dầu từ Moscow và chuyển sang nguồn cung đắt hơn từ Mỹ và Trung Đông. Động thái này báo hiệu sự thay đổi lớn trên bản đồ năng lượng toàn cầu và có thể làm gia tăng chi phí của nền kinh tế Ấn Độ.

Bộ não của bạn đạt đỉnh cao ở độ tuổi nào?

Khi tuổi trẻ dần trôi vào dĩ vãng, bạn có thể bắt đầu lo sợ về tuổi già, nhưng nghiên cứu cho biết nhiều người trong chúng ta, chức năng tâm lý tổng thể thực sự đạt đỉnh điểm ở độ tuổi từ 55 đến 60.