Vùng đất An Nhơn xưa từng là kinh đô của vương quốc Champa và vương triều Tây Sơn. Nơi đây còn được mệnh danh là đất “trăm nghề” như gốm, đúc đồng, rèn, tiện gỗ mỹ nghệ, khảm xà cừ, làng bún Song Thằn….
Người dân làng nghề gốm truyền thống Nhạn Tháp - Vân Sơn (thuộc phường An Nhơn, tỉnh Gia Lai) vẫn nhớ như in thời hoàng kim. Xưa làng gốm rất nhộn nhịp, gốm làm ra đến đâu bán hết đến đó. Tuy nhiên, giờ chỉ là ký ức bởi số hộ dân còn gắn bó với nghề chỉ trên đầu ngón tay.

Gia đình bà Phan Thị Xử là một trong số ít hộ ở làng gốm Vân Sơn còn bám trụ với nghề (Ảnh: Doãn Công).
Hơn 40 năm làm gốm, bà Phan Thị Xử (62 tuổi, trú tại tổ dân phố Vân Sơn, phường An Nhơn, tỉnh Gia Lai) là một trong số ít hộ còn cố bám trụ với nghề, vì vợ chồng già không thể đi làm công nhân. Tuy nhiên, 4 người con của vợ chồng bà không ai nối nghiệp cha ông.
Theo bà Xử, ngày xưa trung tâm làng gốm nằm ở xóm An Xuân, thôn Bắc Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định cũ. Sau này, khi nguồn đất sét để làm gốm ở vùng này cạn kiệt, nhiều người trong làng “di cư” đến vùng nguyên liệu mới, từ đó hình thành làng gốm Vân Sơn ngày nay.
Các sản phẩm gốm Vân Sơn chủ yếu là đồ gia dụng thủ công như nồi, ấm, chum, bếp lò… Dù không tinh xảo như gốm Bát Tràng hay Phù Lãng, nhưng gốm Vân Sơn được bán nhiều tỉnh, thành trong cả nước, nhất là khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

Số nghệ nhân có tay nghề để làm gốm ở Nhạn Tháp - Vân Sơn ngày càng ít (Ảnh: Doãn Công).
“Nghề gốm Nhạn Tháp - Vân Sơn được truyền đời này qua đời khác, dù không giàu nhưng người dân sống tạm ổn. Tuy nhiên khoảng 20 năm trở lại đây, khi đồ gia dụng như nồi nhôm, inox, bếp điện, bếp gas ra đời, khiến đồ gốm truyền thống dần mất chỗ đứng nên làng nghề dần mai một”, bà Xử nói.
Ông Nguyễn Tấn Khải (50 tuổi), chủ một trong số ít lò gốm còn hoạt động kể rằng, ngày xưa gọi làng nghề vì cả làng đều làm gốm, nay chỉ còn vài hộ nên gọi là “xóm nghề”. Ông nhẩm tính, hiện tại ở Nhạn Tháp và Vân Sơn chỉ còn khoảng 7 hộ dân đang cố bám trụ với nghề.
Theo ông Khải, làng nghề mai một vì nhiều lý do như sản phẩm khó tiêu thụ, đất sét khan hiếm đẩy giá nguyên liệu tăng cao, trong khi giá bán thấp. Nghề lại nặng nhọc, làm chỉ đủ ăn nên chẳng còn ai muốn theo nghề nữa.
Ở tuổi 66, bà Võ Thị Thay được xem là nghệ nhân kỳ cựu, vì có thể nặn được bất kỳ thứ gì từ đất sét như nồi, ấm, chum, vại, chậu cảnh… Gia đình bà từng sở hữu lò gốm lớn nhưng đã đóng cửa nhiều năm nay, vì con cháu không ai nối nghiệp. Bà Thay đành đi làm thuê cho các lò còn lại, kiếm được khoảng 250.000 đồng/ngày.
“Tôi nghĩ nghề này rồi sẽ mất thôi. Vài năm nữa, lớp già như tôi không còn thì làng gốm chỉ còn trong ký ức”, bà Thay trăn trở.

Số ít người làm nghề gốm là những lao động lớn tuổi (Ảnh: Doãn Công).
Ông Trần Anh Tấn, Trưởng phòng Kinh tế - Hạ tầng - Đô thị phường An Nhơn, thừa nhận số hộ dân còn theo nghề gốm truyền thống đang giảm mạnh, chỉ còn hơn 10 hộ, trong đó đa số là người lớn tuổi, làm vì yêu nghề truyền thống.
“Tỉnh có chính sách khuyến công, hỗ trợ làng nghề. Tuy nhiên, để được hưởng chính sách thì cần đáp ứng các tiêu chí nhất định, trong đó có quy mô số hộ làm nghề. Việc phát triển làng nghề gặp khó khăn do số hộ làm gốm không đạt 20% số hộ theo tiêu chí để công nhận làng nghề”, ông Tấn chia sẻ.
Ông Tấn cho biết thêm, để gìn giữ nghề gốm, địa phương đang xây dựng đề án gắn phát triển làng nghề với hoạt động tham quan, trải nghiệm cho du khách, học sinh.