Tư nhân được đầu tư điện hạt nhân nhỏ
Nội dung trên có trong Nghị quyết phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030 vừa được Quốc hội bấm nút thông qua. Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1.3.2026. Theo đó, Chính phủ được giao ban hành cơ chế đầu tư phát triển điện hạt nhân (ĐHN) module nhỏ (SMR) theo từng thời kỳ, căn cứ nhu cầu và tình hình thương mại hóa công nghệ; việc phát triển SMR cũng được yêu cầu phải đảm bảo an ninh, an toàn hạt nhân.

Vị trí xây dựng Nhà máy điện hạt nhân số 2 tại xã Vĩnh Hải, tỉnh Khánh Hòa...
ẢNH: BÁ DUY - VGP

...Phối cảnh Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận
ẢNH: BÁ DUY - VGP
SMR là các lò phản ứng hạt nhân thế hệ mới, thường có công suất nhỏ hơn 300 MW cho mỗi tổ máy, nhỏ hơn nhiều so với lò truyền thống vốn khoảng 1.000 - 1.600 MW/tổ máy. SMR được chế tạo theo dạng module nhỏ, dễ vận chuyển và lắp ráp, giúp rút ngắn thời gian xây dựng, nâng cao khả năng tiêu chuẩn hóa.
Trước đây, có nhiều ý kiến xung quanh việc VN nên phát triển ĐHN như thế nào, độc quyền nhà nước hay mở cho tư nhân tham gia. Phía muốn "độc quyền nhà nước" thì cho rằng loại năng lượng này liên quan đến uranium, độ bức xạ cao, công nghệ phức tạp nên phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người dân, môi trường. Phía ủng hộ cho tư nhân tham gia khuyến cáo, nếu độc quyền nhà nước với ĐHN thì bài toán nguồn lực sẽ khó giải, gánh nặng đầu tư công tăng trong khi nguồn lực ngân sách có hạn. Tương tự, phát triển ĐHN truyền thống hay SMR cũng gây ra những luồng ý kiến trái chiều.
Nghị quyết của Quốc hội cũng đưa một số chủ trương phát triển điện gió ngoài khơi. Theo đó, DN được sử dụng nguồn kinh phí để khảo sát dự án và được hạch toán vào chi phí nếu không có nhà đầu tư trúng thầu. Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định chủ trương đầu tư, nhà đầu tư không qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu chọn nhà đầu tư của dự án điện gió ngoài khơi tới 2030. Giai đoạn 2030 - 2035, thẩm quyền quyết chủ trương đầu tư thuộc về chủ tịch UBND cấp tỉnh. Các dự án phải đáp ứng các điều kiện như quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, tài nguyên môi trường biển... có trong quy hoạch phát triển điện lực và dự kiến vận hành giai đoạn 2025 - 2030.
Chuyên gia năng lượng hạt nhân, PGS-TS Vương Hữu Tấn, nguyên Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử VN, khẳng định SMR được coi là giải pháp đột phá, cho phép xây dựng module linh hoạt, có thể triển khai ở nhiều địa điểm, phù hợp với nhu cầu địa phương và các ứng dụng như trung tâm dữ liệu, đô thị thông minh. Tuy vậy, việc tổ chức triển khai thực hiện dự án ĐHN đầu tiên phải tuân theo hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), bao gồm các cơ sở hạ tầng nói chung phải bảo đảm an toàn, an ninh theo chuẩn mực chung của quốc tế. Vừa qua, IAEA hoàn thành đợt làm việc đánh giá cơ sở hạ tầng ĐHN tích hợp tại VN. Kết luận sơ bộ, VN đã có những bước tiến lớn để khởi động lại và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án Nhà máy ĐHN Ninh Thuận cũng như phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết.
Theo PGS-TS Vương Hữu Tấn, loại lò ĐHN nhỏ và trung bình, module nhỏ và siêu nhỏ... là một xu hướng trong phát triển công nghệ lò phản ứng của tương lai vì có tổng mức đầu tư thấp, đơn giản trong thiết kế, rút ngắn thời gian xây dựng, thích ứng với nhu cầu điện năng không cao. Đặc biệt, loại lò nhỏ này không yêu cầu hạ tầng phức tạp như các loại lò lớn, có thể bảo đảm an toàn và phục vụ cho việc thay thế các nhà máy nhiệt điện than phải đóng cửa sớm vì cam kết net zero và có công suất tương đương. Bên cạnh đó, thế giới cũng có thêm xu hướng là tiếp tục cải tiến các lò làm mát bằng nước có công suất lớn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nhiên liệu, bảo đảm an toàn cao nhất với các kịch bản theo giả định khi sự cố xảy ra, kể cả sự cố nghiêm trọng nhất. Dù vậy theo ông Tấn, công nghệ SMR có nhược điểm là đang trong giai đoạn vừa nghiên cứu, vừa thử nghiệm và kiểm chứng. Trong khi lò phản ứng truyền thống đã được thế giới kiểm chứng hơn 70 năm, hầu hết các khuyết điểm đã dần được khắc phục.

Vị trí đặt Nhà máy điện hạt nhân số 1 tại xã Phước Dinh, tỉnh Khánh Hòa
ẢNH: BÁ DUY
Chuyên gia năng lượng, TS Ngô Đức Lâm, nguyên Phó viện trưởng Viện Năng lượng (Bộ Công thương), phân tích, dự án ĐHN thông thường có quy mô lớn, chi phí đầu tư cao, thời gian xây dựng dài và vận hành phức tạp; nhưng đổi lại cung cấp nguồn năng lượng dồi dào và ổn định, không phụ thuộc điều kiện thời tiết như gió hay mặt trời. Còn nhà máy ĐHN quy mô nhỏ là một loại công nghệ hạt nhân mới chứ không phải là sự thu hẹp cơ học của các nhà máy ĐHN truyền thống. "Công nghệ này đang được phát triển trên thế giới do nhu cầu thực tế và hiện đã có một vài nước phát triển thành công. Bên cạnh yếu tố công nghệ mới thì về công suất thấp, quy mô đầu tư cũng ít, thời gian xây dựng ngắn hơn và quan trọng là mức độ rủi ro cũng thấp hơn so với các nhà máy ĐHN truyền thống. Quan trọng là việc vận hành cũng đơn giản hơn nên thuận lợi trong việc vận hành và đào tạo nguồn nhân lực", TS Lâm giải thích.
Nguồn điện quan trọng cho kỷ nguyên phát triển mới
Ước tính, nhu cầu sử dụng điện của VN tăng 12 - 13% mỗi năm, dự kiến tổng công suất hệ thống điện sẽ cần bổ sung khoảng 70 GW vào năm 2030 và từ 400 - 500 GW vào năm 2050. Hiện tại, các nguồn năng lượng truyền thống như than đá và thủy điện gần như "đụng trần", chưa kể những ảnh hưởng không ít từ biến đổi khí hậu. Năng lượng tái tạo phát triển nhanh song nguồn điện nền ổn định để phát triển kinh tế vẫn là thách thức lớn. Vì thế, phát triển ĐHN là tất yếu khi VN đẩy mạnh chiến lược phát triển công nghệ cao, chuyển đổi số, bán dẫn...
Chuyên gia năng lượng, TS Nguyễn Huy Hoạch (Hội đồng khoa học Tạp chí Năng lượng VN), nói rằng chỉ riêng ngành bán dẫn, mỗi quy trình chế tạo phức tạp đều đòi hỏi nguồn điện đáng tin cậy, chất lượng cao. Ngay công đoạn ở bậc giá trị thấp cũng cần nguồn điện ổn định. Vì vậy, bất kỳ sự cố nào về nguồn điện, chẳng hạn như mất điện hoặc chập chờn… đều có thể làm gián đoạn hoạt động và dẫn đến lãng phí các lô chất bán dẫn trước đó. Tuy Quy hoạch điện 8 khẳng định ưu tiên năng lượng tái tạo, song đặc tính không ổn định của loại hình năng lượng này bắt buộc nền kinh tế đang chuyển đổi vào kỷ nguyên phát triển mới, tăng trưởng 2 con số... phải có nguồn điện nền ổn định và đủ lớn. Trong bối cảnh đó, ĐHN là lựa chọn tất yếu.

Vị trí đặt Nhà máy điện hạt nhân số 2 tại xã Vĩnh Hải, tỉnh Khánh Hòa
ẢNH: BÁ DUY
Trước đó, các nhà khoa học thuộc Hội đồng khoa học Tạp chí Năng lượng VN cũng đưa ra khuyến nghị những việc cần làm để có thể khởi công dự án Nhà máy ĐHN Ninh Thuận, khẳng định ĐHN không chỉ giải quyết nhu cầu điện, mà còn tạo động lực phát triển công nghiệp vật liệu, cơ khí chế tạo, tự động hóa, công nghệ cao. Nếu chuẩn bị đúng hướng và đúng tiêu chuẩn quốc tế, VN hoàn toàn có thể trở thành quốc gia sở hữu nhà máy ĐHN an toàn, hiện đại vào thập niên 2030 - 2040.
TS Ngô Đức Lâm cũng nhấn mạnh, đầu tư ĐHN một mặt đảm bảo đủ điện cung cấp cho các nhà máy, mặt khác, quan trọng hơn là bảo đảm đủ nguồn điện sạch cho hàng hóa xuất khẩu. Điện sạch cũng là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong việc chuyển đổi phương tiện giao thông, giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí, thực hiện mục tiêu net zero vào năm 2050.
Cơ hội rút ngắn thời gian làm chủ công nghệ
Chọn công nghệ nào để tối ưu hiệu quả, chi phí cũng là bài toán được nói đến rất nhiều, từ khi VN khởi động lại chương trình ĐHN.

Một lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ (SMR) của Mỹ
ẢNH: T.L
PGS-TS Vương Hữu Tấn đặt vấn đề: "Mục tiêu của chiến lược phát triển ĐHN VN là để trở thành một nhà cung cấp công nghệ ĐHN như Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc hay chỉ dừng ở việc vận hành an toàn và khai thác hiệu quả các nhà máy ĐHN được nhập khẩu như Đài Loan? Câu hỏi này cần phải được trả lời đầu tiên vì nó sẽ định hướng chúng ta đàm phán với đối tác về hợp đồng EPC, đào tạo phát triển nguồn nhân lực và phát triển các ngành công nghiệp có liên quan như thế nào".
Theo ông Tấn, hiện chúng ta chủ trương triển khai đồng thời hai nhà máy ĐHN với hai đối tác khác nhau, công nghệ cũng khác nhau. Nếu làm chủ và nội địa hóa cả hai loại công nghệ sẽ gây tốn kém trong đầu tư và thị trường lại không có. "Kinh nghiệm của Hàn Quốc là ban đầu làm ĐHN với hai đối tác khác nhau là Mỹ và Canada. Hàn Quốc chọn làm chủ và nội địa hóa để trở thành nhà cung cấp công nghệ ĐHN chỉ với công nghệ của Mỹ và có thể làm tổng thầu EPC (thiết kế, mua sắm thiết bị, thi công xây dựng) cho dự án ĐHN bằng công nghệ của Hàn Quốc ngay từ đầu. Hiện trạng nền kinh tế VN cũng như các điều kiện cần thiết cho phát triển ĐHN tốt hơn Hàn Quốc những năm thập niên 1970. Chúng ta có thể rút ngắn đáng kể thời gian làm chủ hoàn toàn công nghệ và trở thành nhà cung cấp công nghệ ĐHN mang thương hiệu VN từ 1,5 - 2 lần so với Hàn Quốc những năm 1970; tức là sẽ cần từ 8 - 10 năm để có thể trở thành nhà cung cấp công nghệ ĐHN", PGS-TS Vương Hữu Tấn phân tích và dẫn chứng, Hàn Quốc những năm 1970 phải qua 10 dự án mới tự chủ hoàn toàn công nghệ; Trung Quốc những năm 2010 chỉ cần 4 dự án đã có thể tự chủ hoàn toàn công nghệ ĐHN nhập khẩu từ Westinghouse (Mỹ).
Tạp chí Gas Turbine World (GTW) Handbook 2025 ước tính, SMR dù có chi phí đầu tư ban đầu tương đối cao nhưng mang lại nhiều ưu thế như thiết kế module linh hoạt, an toàn thụ động, rút ngắn thời gian xây dựng, khả năng vận hành độc lập từng module và tối ưu hóa hiệu suất ở tải thấp của nhà máy. Trong dài hạn, khi công nghệ SMR bước sang giai đoạn thương mại hóa với việc sản xuất hàng loạt ở quy mô lớn hơn, chi phí dự kiến sẽ giảm đáng kể.
Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt cũng đang lên kế hoạch phát triển SMR, mục tiêu có 8 - 10 tổ máy trước năm 2035, và làm chủ công nghệ vào năm 2040. SMR đã được Chính phủ đưa vào danh mục 11 công nghệ chiến lược quốc gia. Muốn tự chủ công nghệ, trước mắt VN phải hợp tác với một hoặc vài nước có công nghệ nguồn để lắp đặt một tổ máy phục vụ nghiên cứu, tìm hiểu công nghệ; trên cơ sở đó đầu tư để phát triển và làm chủ công nghệ vào khoảng năm 2040. Về số lượng, ước tính trước năm 2035 có khoảng 8 - 10 tổ máy, đến năm 2045 có khoảng 30 - 35 tổ máy. Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt có trách nhiệm nghiên cứu công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực để tham gia từ đầu các dự án về SMR của VN.
Ở một góc khác, TS Ngô Đức Lâm lưu ý, dù Quốc hội đã biểu quyết thông qua nghị quyết khuyến khích tư nhân đầu tư vào ĐHN quy mô nhỏ nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ chủ trương. Để hiện thực hóa và tăng tốc, cần có chính sách cụ thể. "Trước mắt, Chính phủ có thể rà soát xem nguồn lực dành cho ĐHN tới đâu, mức độ đầu tư ra sao. Chính sách thu hút doanh nghiệp (DN) tư nhân đầu tư vào ĐHN chắc chắn sẽ được thảo luận rất nhiều trong thời gian tới để bảo đảm an toàn, hiệu quả và minh bạch", ông Lâm khuyến nghị.
Theo ông Lâm, mấu chốt nằm ở việc xây dựng một chương trình phát triển ĐHN dài hạn của quốc gia với mục tiêu và nhiệm vụ rõ ràng, trên cơ sở tiếp thu các kinh nghiệm thế giới, bảo đảm đủ nguồn lực và tổ chức triển khai thực hiện quyết liệt. "Chỉ riêng khâu vận hành đòi hỏi nguồn nhân lực được đào tạo bài bản và chuyên sâu với thời gian ít nhất 5 năm, kèm theo đó cần phải có thời gian tham gia vận hành thực tế để có kinh nghiệm. Hiện nay, cũng có một số gợi ý là Chính phủ có thể thành lập một quỹ mở để thu hút các nhà đầu tư, huy động vốn từ các DN. Khi nhà máy xây dựng và đi vào hoạt động thì nguồn điện sẽ được phân bổ cho các DN tham gia đầu tư chẳng hạn", chuyên gia Ngô Đức Lâm gợi ý.

















