Ngân hàng tham gia thị trường vàng với sự kiểm soát chặt chẽ hơn
Nghị định số 232 mà Chính phủ ban hành hôm 26/8 được xem là bước ngoặt lớn đối với thị trường vàng trong vòng 13 năm qua. Bởi Nghị định này chính thức xoá bỏ cơ chế Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, sửa đổi bổ sung nhiều điểm ở Nghị định 24 được ban hành hồi tháng 4/2012.
Theo đó, ngân hàng thương mại và doanh nghiệp đủ điều kiện sẽ được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho phép sản xuất vàng miếng, thay vì cơ chế độc quyền Nhà nước như trước đây. Ngoài ra, việc nhập khẩu vàng nguyên liệu cũng được nới lỏng hơn khi các ngân hàng thương mại, doanh nghiệp đủ điều kiện cũng sẽ được tham gia.
Cụ thể, doanh nghiệp muốn được cấp phép sản xuất vàng miếng phải có vốn điều lệ tối thiểu 1.000 tỷ đồng, ngân hàng là 50.000 tỷ. Các đơn vị này phải trong danh sách đang được NHNN cấp giấy phép kinh doanh mua, bán kim loại quý, không bị xử phạt hoặc đã khắc phục xong nếu vi phạm.
Như vậy, tính theo quy mô vốn điều lệ hiện hành, chỉ một số doanh nghiệp "đầu ngành" có vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng trở lên như PNJ, DOJI, SJC.
Về phía ngân hàng, tính đến thời điểm hiện tại có 8 ngân hàng có vốn điều lệ trên 50.000 tỷ đồng gồm: Vietcombank, BIDV, VietinBank, Agribank, VPBank, Techcombank, MB và ACB.
Câu hỏi đặt ra là lần trở lại này của các ngân hàng khác gì so với cách đây hơn 13 năm - thời điểm trước khi có Nghị định 24?
Trao đổi với chúng tôi, ông Huỳnh Trung Khánh, Phó chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam (VGTA), đồng thời là cố vấn cấp cao Hội đồng Vàng thế giới phân tích lần trở lại này của các ngân hàng thương mại khác hơn nhiều so với trước đây và được quản lý chặt chẽ hơn.
Theo đó, trước khi có Nghị định 24, thị trường vàng được nới lỏng, nhiều người gửi tiết kiệm bằng vàng. Một số ngân hàng bán vàng mà người dân gửi để cho vay. Bởi, lãi suất gửi vàng lúc đó chỉ 2%/năm trong khi nếu bán vàng để lấy tiền mặt cho vay thì lãi suất lên hơn 10% - mức chênh lệch quá lớn.
Tuy nhiên khi giá vàng tăng vọt lên trong khi ngân hàng không có công cụ phòng vệ rủi ro, người dân muốn rút vàng về, ngân hàng rơi vào thế khó, thua lỗ nặng. Cũng từ đó mà Nghị định 24 ra đời nhằm chống vàng hoá nền kinh tế, siết chặt sự tham gia của các ngân hàng thương mại đối với thị trường vàng.
Còn bối cảnh hiện tại, với quy định mới, ngân hàng thương mại được phép quay trở lại với thị trường vàng, tuy nhiên mức độ tham gia sẽ hạn chế hơn, dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước.
“Trong 8 ngân hàng được phép tham gia thị trường vàng thì có tới hơn một nửa là ngân hàng quốc doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước kiểm soát tốt hơn, không sợ tình trạng ngân hàng “xé rào làm bậy". Chỉ ngân hàng thương mại đủ điều kiện sẽ tham gia xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu, sản xuất, kinh doanh vàng miếng, mua đi - bán lại để bình ổn thị trường”, ông Khánh nhận định.
Ngoài ra, theo ông, ý nghĩa lớn nhất trong lần thay đổi chính sách này là ngân hàng thương mại đủ điều kiện sẽ được phép nhập khẩu vàng nguyên liệu, cung cấp cho các doanh nghiệp chế tác vàng trong nước, góp phần tăng nguồn cung.
“Cả nước chỉ có 3 doanh nghiệp kinh doanh vàng lớn đủ điều kiện có vốn trên 1.000 tỷ đồng để nhập khẩu vàng nguyên liệu PNJ, SJC và Doji. Trong khi đó, cả nước có hàng ngàn doanh nghiệp chế tác vàng quy mô nhỏ không đủ điều kiện nhập khẩu vàng nguyên liệu.
Do đó, việc một số ngân hàng thương mại được phép nhập khẩu vàng nguyên liệu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cung cấp nguồn hàng cho những doanh nghiệp chế tác quy mô nhỏ này. Các ngân hàng nhập sỉ về, bán lẻ cho các doanh nghiệp bé. Đây là nguồn nguyên liệu để sản xuất nữ trang”, ông Khánh nhận định.
Ông cho biết trong hai năm qua nguồn vàng nguyên liệu rất căng thẳng, đặc biệt sau khi Nhà nước mạnh tay siết chặt tình trạng vàng nhập lậu. Do đó, quy định mới giúp ngành chế tác vàng trở nên “dễ thở” hơn.
Chia sẻ với chúng với chúng tôi chuyên gia tài chính TS Nguyễn Trí Hiếu nhận định việc cho phép một số ngân hàng thương mại và doanh nghiệp vàng lớn nhập khẩu vàng sẽ tạo ra sự ổn định trên thị trường vàng, giảm thiểu vấn đề đầu cơ. Đặc biệt, quy định này sẽ giúp cung cấp một nguồn vàng để cung - cầu ổn định, giúp giải quyết vấn đề kéo dài trong nhiều năm qua là chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới quá cao.
“Khoảng cách vàng trong nước và thế giới có thể sẽ được thu hẹp nếu nguồn cung trong nước được tăng cường. Nói cách khác, thị trường trong nước và thế giới được liên thông với nhau thì chắc chắn giá của hai thị trường sẽ sát với nhau hơn”, ông Hiếu nhận định.

Nguồn: Investing, SJC (H.Mĩ tổng hợp)
Theo ông Hiếu, việc trở lại của các ngân hàng thương mại với thị trường vàng lần này được cho là hợp lý và tính kiểm soát rủi ro cao hơn so với trước đây.
Vị chuyên gia nhắc lại rằng cách đây khoảng 15 năm, ngân hàng thương mại từng tham gia mạnh mẽ vào thị trường vàng, bao gồm cả huy động và cho vay vàng. Tuy nhiên, các hoạt động này đã bị cấm. Hiện nay, dù được phép tham gia sản xuất, nhập khẩu và xuất khẩu vàng, ngân hàng vẫn không được huy động hay cho vay vàng.
“Đây là quy định hợp lý vì nếu cho vay vàng, ngân hàng sẽ đi lệch khỏi chức năng truyền thống, rơi vào thị trường hàng hóa với nhiều rủi ro khó kiểm soát”, ông nhận định.
Thực tế, một số ngân hàng cũng đang chuẩn bị “lên dây cót” để tham gia thị trường. Trao đổi với báo chí, ông Phạm Quang Thắng, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), cho biết trước đây ngân hàng này từng tham gia lĩnh vực vàng nhưng đã tạm dừng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, với sự mở cửa của Nghị định 232, ngân hàng đã chuẩn bị sẵn sàng để trở lại.
Theo ông Thắng, Techcombank đã có các bước chuẩn bị trên nhiều phương diện, đơn cử như tìm kiếm đối tác quốc tế để nhập khẩu vàng nguyên liệu, đồng thời có thể chế tác vàng miếng mang thương hiệu Techcombank. Đồng thời, ngân hàng đã chuẩn bị cơ sở vật chất trong nước như nhân sự, quy trình nhập khẩu – cung ứng, kho bãi, thiết bị cân đong, cùng các kênh phân phối.
Bên cạnh đó, ngân hàng cũng sẵn sàng phát triển hệ thống phân phối không chỉ qua chi nhánh mà còn trên nền tảng số, để người dân có thể tiếp cận dịch vụ mua bán vàng trực tuyến.
Đối với hoạt động sản xuất, ông Thắng cho rằng việc xây dựng cơ sở chế tác vàng miếng cần thời gian và phụ thuộc vào nhu cầu. Techcombank sẵn sàng triển khai khi thị trường đủ lớn.

Ảnh: Báo Long An
Các ngân hàng có thể hứng thú với nhập khẩu vàng nguyên liệu hơn
Khi ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường vàng cũng có một số quan ngại. Chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu cho rằng sản xuất và kinh doanh vàng không phải là nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thương mại - vốn chỉ gắn với tiền tệ.
“Vàng là một loại hàng hóa đặc thù, gần với tiền nhưng không phải là tiền. Ngân hàng thương mại là định chế tài chính gắn với tiền tệ, nên việc tham gia sản xuất vàng không phải chuyên môn cốt lõi của họ”, ông phân tích.
Để hạn chế rủi ro, chuyên gia cho rằng các ngân hàng cần xây dựng quy chế quản trị riêng cho hoạt động vàng. Đây là lĩnh vực không nằm trong khung quản trị rủi ro Basel quốc tế, do vậy NHNN cần ban hành một bộ khung pháp lý làm nền tảng.
Song song, mỗi ngân hàng phải thành lập bộ phận chuyên môn về vàng, theo dõi sát diễn biến thị trường trong và ngoài nước để quản trị hiệu quả.
Chia sẻ với chúng tôi, một chuyên gia lâu năm trong lĩnh vực kinh doanh vàng cho rằng những ngân hàng có điều kiện họ chưa chắc muốn kinh doanh vàng miếng vì biến động giá trên thị trường khó lường và có thể xảy ra tình trạng khi mua vàng về để dập vàng miếng thì giá cao nhưng khi bán lẻ cho người dân thì giá thấp.
Ngoài ra, thương hiệu vàng chưa đủ mạnh cũng sẽ là vấn đề. Ông cho rằng người dân đã quá quen với thương hiệu vàng miếng SJC, do đó với các thương hiệu mới cần có mức giá hấp dẫn hơn để kéo người mua.
“Nếu giá vàng miếng của các thương hiệu mới bằng với vàng SJC thì người dân nhiều khả năng vẫn chọn SJC vì đây là thương hiệu lâu năm hơn, người dân đã quá quen với thương hiệu này. Do đó, các thương hiệu mới gia nhập vào thị trường có thể sẽ phải bán giá rẻ hơn SJC thì mới có sức hấp dẫn người mua”, ông nói.
Ông ước tính tổng lượng vàng miếng của SJC trên thị trường khoảng 24 triệu lượng và chiếm phần lớn thị phần.
Vị chuyên gia này cho rằng các ngân hàng sẽ hứng thú hơn với mảng “bán buôn” theo hình thức B2B hơn bởi rủi ro sẽ thấp hơn và các doanh nghiệp chế tác vàng quy mô nhỏ khác cũng rất hoan nghênh bởi họ sẽ có nhiều nơi có thể cung cấp vàng nguyên liệu cho chế tác hơn.
Ông phân tích, theo thông lệ quốc tế, khối lượng vàng nhập khẩu tối thiểu là 50 kg (tương đương khoảng 5 triệu USD). Những doanh nghiệp nhỏ không có tiềm lực tài chính để nhập số lượng này. Chưa kể, nếu số lượng nhập khẩu ít, tỷ lệ các loại thuế, phí tính trên lô hàng sẽ cao. Do đó, các ngân hàng, doanh nghiệp vàng lớn mới có đủ tiềm lực tài chính để nhập về và phân phối cho các doanh nghiệp nhỏ.
“Các ngân hàng có thể làm việc với các doanh nghiệp vàng cần mua nguyên liệu, chốt khối lượng mua và với giá giao ngay, cộng thêm các loại thuế phí và gom đủ khối lượng tối thiểu 50kg. Đồng thời, họ có thể yêu cầu trả tiền trước. Với những biện pháp này rủi ro đối với các ngân hàng sẽ giảm xuống, trong khi nguồn cung vào nguyên liệu nội địa được đáp ứng”, vị này nhận định.