Tài chính

Quản lý tiền kỹ thuật số - Thực trạng, kinh nghiệm quốc tế và gợi ý chính sách đối với Việt Nam

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV
TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV
Nhóm chuyên gia
93 bài viết

LTS: Trong bối cảnh chuyển đổi số, tài sản số và tiền kỹ thuật số phát triển nhanh, xuyên biên giới thời gian qua, mang lại cả cơ hội và thách thức, Lãnh đạo Đảng và Chính phủ yêu cầu sớm có khung pháp lý để quản lý, đáp ứng nhu cầu phát triển của loại hình này. Đây là bước đi cần thiết trong bối cảnh thị trường tài sản số, tiền kỹ thuật số phát triển rất nhanh, cũng như việc Việt Nam có kế hoạch thành lập trung tâm tài chính quốc tế tại TP. HCM và khu vực tại Đà Nẵng. 

TS.Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã công bố báo cáo đánh giá nhanh về Quản lý tiền kỹ thuật số, trong đó làm rõ khái niệm, phân loại tiền kỹ thuật số, kinh nghiệm quốc tế về quản lý, thực trạng tại thị trường Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị về cách tiếp cận, cách thức quản lý tiền kỹ thuật số tại Việt Nam.

Chúng tôi xin đăng tải nguyên văn báo cáo để độc giả tiện theo dõi.

Quản lý tiền kỹ thuật số - Thực trạng, kinh nghiệm quốc tế và gợi ý chính sách đối với Việt Nam- Ảnh 1.

Đầu tiên, về khái niệm tiền kỹ thuật số (KTS), hiện nay có một số khái niệm về tiền thường bị nhầm lẫn với nhau; đó là tiền kỹ thuật số (digital currencies), tiền điện tử, tiền ảo (trong đó có tiền mã hóa).

Tiền KTS là phạm trù bao trùm, gồm tất cả các loại tiền tệ tồn tại dưới dạng KTS.

Tiền điện tử (electronic money), theo NHTW Châu Âu (ECB), là giá trị tiền tệ được lưu trữ trên một thiết bị điện tử được sử dụng phổ biến để thực hiện giao dịch thanh toán, chuyển khoản cho nhau, là đồng tiền pháp định, nên đã được luật hóa và sử dụng phổ biến trên thế giới và tại mỗi quốc gia. Tiền điện tử tại Việt Nam cũng đã tồn tại từ lâu và được luật hóa (trong Luật TCTD 2024 và Nghị định 52/2024/NĐ-CP….).

Tiền ảo (virtual currency) là "một loại tiền kỹ thuật số không chịu sự quản lý, không phải là tiền pháp định, được phát hành bởi những người phát triển phần mềm (developers) thường đồng thời là người kiểm soát hệ thống; được sử dụng và chấp nhận thanh toán giữa các thành viên của một cộng đồng ảo nhất định" (theo ECB). Tiền mã hóa (crypto currency) là một loại tiền ảo (như bitcoin, ethereum, XRP, Tether, Pi…).

Tiền kỹ thuật số có 2 dạng: (i) một là tiền pháp định (nếu được NHTW của một quốc gia phát hành); hoặc (ii) không phải là tiền pháp định, không chính thống (nếu do các cá nhân, tổ chức khác phát hành, như Bitcoin, onecoin, ethereum, etc…), có thể được gọi là tiền ảo hoặc tiền mã hóa. Trên thế giới, hiện nay có khoảng 17.000 tiền KTS không chính thống như thế này với giá trị vốn hóa khoảng 3.000 tỷ USD, trong đó bitcoin chiếm khoảng 57%, còn lại là các đồng tiền khác.

Tiền KTS do ngân hàng trung ương (NHTW) phát hành (Central Bank Digital Currency – CBDC) là tiền pháp định (tiền fiat) dưới dạng KTS được phát hành, kiểm soát và bảo đảm bởi NHTW của một quốc gia hay vùng lãnh thổ có chủ quyền, với đầy đủ các chức năng của tiền pháp định. 

Quản lý tiền kỹ thuật số - Thực trạng, kinh nghiệm quốc tế và gợi ý chính sách đối với Việt Nam- Ảnh 2.

Đối với việc quản lý tiền kỹ thuật số, các quốc gia trên thế giới có cách tiếp cận khác nhau. Với tiền mã hóa (như bitcoin, ethereum, XRP, Tether, Pi…), các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới có mức độ chấp nhận loại tiền khác nhau, xuất phát từ quan điểm khác nhau về tiền KTS nói chung và tiền mã hóa nói riêng. Theo bảng theo dõi của Hội đồng Atlantic (Atlantic council Cryptocurrency Reglation tracker), cập nhật đến tháng 9/2024, khảo sát về cách tiếp cận quản lý tiền KTS (không bao gồm tiền KTS do NHTW phát hành) tại 60 quốc gia cho thấy 3 nhóm: 33 quốc gia (chiếm 55%, chủ yếu là các nước phát triển) công nhận/cho phép giao dịch, 17 quốc gia (28%) cấm một phần (Việt Nam ở trong nhóm này), và 10 quốc gia (17%) cấm hoàn toàn.

Đối với tiền KTS do NHTW phát hành (CBCD), hiện đang có 134 quốc gia và khu vực (chiếm 98% GDP toàn cầu) đã và đang khám phá CBCD (tăng nhanh từ 35 quốc gia vào tháng 5/2020); trong đó có 3 quốc gia đã phát hành (như Bahamas, Jamaica and Nigeria…), 44 quốc gia đang thử nghiệm (như EU, Trung Quốc, Brazil, Úc…), 19 quốc gia đang phát triển, 39 quốc gia đang nghiên cứu (có Việt Nam), 21 quốc gia không thấy gì, 2 quốc gia đã hủy kế hoạch phát hành, 6 quốc gia ở dạng khác….v.v.

Thực trạng tiền KTS tại Việt Nam

Thống kê của Cổng thanh toán tiền số Tripple-A công bố tháng 6/2024 cho thấy Việt Nam có 20,9 triệu người sở hữu tiền KTS (chủ yếu là tiền ảo/tiền mã hóa không chính thức) trong năm 2023, đứng thứ 4 trên thế giới (sau Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ) về số lượng người sở hữu tiền số (chiếm tỷ trọng 3,73% toàn cầu), nhưng đứng thứ 2 về tỷ lệ người sở hữu tiền số khi chiếm 21,2% dân số, cao hơn Mỹ (ở vị trí thứ ba, 15,6%). Theo Tripple-A, tỷ lệ sở hữu tiền số bình quân trên thế giới là 6,8% và hiện có 560 triệu người sở hữu tiền số toàn cầu. Việc sở hữu, đầu tư tiền KTS này chủ yếu thông qua các sàn giao dịch, người tạo lập sân chơi ở nước ngoài.

Theo bảng xếp hạng chỉ số chấp nhận tiền KTS toàn cầu (Global Crypto Adoption Index) năm 2024 của Chainalysis, Việt Nam đứng thứ 5/151 quốc gia về mức độ chấp nhận tiền số, trong đó giao dịch tiền số từ các sàn giao dịch tập trung của Việt Nam được xếp thứ 3, còn giao dịch qua các ứng dụng phi tài chính xếp thứ 6/151 quốc gia. Tuy nhiên, xếp hạng của Việt Nam giảm 2 năm liên tiếp (năm 2022 Việt Nam xếp thứ nhất) khi lượng người tham gia đầu tư tại các quốc gia như Ấn Độ và Indonesia tăng nhanh trong 2 năm gần đây.

Theo khảo sát của Coin98 Insights vào tháng 12/2023, nhà đầu tư tài sản số tại Việt Nam chủ yếu là nam giới, chiếm 85,3% và chủ yếu thuộc độ tuổi tương đối trẻ, tập trung chính ở khoảng 26-36 tuổi (chiếm 47,1%) và 18 - 25 tuổi (chiếm 37,9%). Phần lớn nhà đầu tư cá nhân tập trung ở các thành phố lớn, lần lượt là TP.HCM (50-54%), Hà Nội (25-30%) và Đà Nẵng (3-5%). Theo khảo sát của Coin68, trong năm 2024, người Việt Nam có xu hướng đầu tư vào các memecoin như Solana, Sui… với hơn 85,3% số người được hỏi trả lời đã từng tham gia.

Tại Việt Nam cũng đã hình thành hệ sinh thái đầu tư và cung cấp dịch vụ liên quan tới tiền KTS, như các dự án Blockchain, ví số, nền tảng hỗ trợ huy động vốn từ token/NFT (tài sản số), sàn giao dịch tài sản ảo, game tiền số và cả các quỹ đầu tư vào tiền số. Bên cạnh đó, tại Việt Nam cũng có sự hiện diện của: (i) các sàn giao dịch tiền ảo lớn trên thế giới như Binance, OKX, BYBIT, MEXC… cũng như (ii) các dự án Blockchain quốc tế như Solana, Aptos, Sui, Near, Injective, Avalanche…v.v.

Thực trạng nhiều người Việt tham gia đầu tư hay sở hữu tiền KTS có thể được giải thích bởi một số lý do như: (i) hy vọng kiếm lời nhanh (nhất là đồng Bitcoin biến động, tăng giá nhanh thời gian qua); (ii) tâm lý đám đông theo trào lưu; (iii) sự phát triển nhanh của công nghệ số và sự tinh vi, tinh quái của những kẻ lừa đảo…v.v.

Tuy tài sản số nói chung và tiền KTS nói riêng đã có những qui định nhất định, nhưng tại Việt Nam hầu như chưa có qui định nào (trừ tiền điện tử là tiền pháp định), tạo ra lỗ hổng pháp lý, thất thu thuế, rủi ro khá lớn…v.v.

Cụ thể, các tài sản số và tiền KTS chưa được công nhận là tài sản có giá trị pháp lý trong Luật Dân sự 2015, còn Luật TCTD 2024 và Nghị định 52/2024/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt thì chỉ quy định về tiền điện tử (là giá trị tiền Việt Nam đồng lưu trữ trên các phương tiện điện tử được cung ứng trên cơ sở đối ứng với số tiền được khách hàng trả trước cho ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cung ứng dịch vụ ví điện tử). Tiền KTS cũng không được công nhận là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam.

Tuy nhiên, các cơ quan quản lý tại Việt Nam cũng đã bắt đầu thay đổi cách tiếp cận với vấn đề này. Tổ nghiên cứu về tài sản ảo, tiền ảo tại Bộ Tài chính đã được thành lập, nghiên cứu về tài sản ảo, tiền ảo cũng như kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động quản lý, giám sát liên quan. Ngày 28/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ban hành Quyết định 1813/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025, trong đó có nội dung "Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách về tiền kỹ thuật số quốc gia". Tuy nhiên, kết quả của những nghiên cứu này chưa có thông tin cụ thể.

Những lổ hổng về hành lang pháp lý có thể phát sinh nhiều hệ lụy. Nổi bật trong số đó là hiện tượng lừa đảo, đầu tư đa cấp…v.v. Nhiều vụ lừa đảo đầu tư tiền KTS, tiền ảo đã diễn ra tại Việt Nam, với giá trị tổn thất rất lớn như vụ lừa đảo tiền ảo đa cấp iFan làm "bốc hơi" hơn 15.000 tỷ đồng của trên 32.000 nạn nhân vào năm 2018. Những vụ lừa đảo xảy ra với tần suất lớn, nhiều thủ đoạn tinh vi đã khiến những doanh nghiệp làm ăn chân chính bị ảnh hưởng, nhiều người vẫn bị lừa, như tháng 7/2024, Công An TP Hà Nội đã đánh sập đường dây tiền ảo Cashback Pro trị giá hàng nghìn tỷ đồng đã khiến nhiều nhà đầu tư ngã ngửa…v.v. Nhà đầu tư Việt nằm trong top quốc gia kiếm lời nhiều nhất từ tiền số, song thực tế cũng cho thấy, nhà đầu tư Việt nằm trong danh sách các quốc gia "sập bẫy" nhiều nhất về tiền ảo. Riêng đường dây lừa đảo tiền ảo, chứng khoán quốc tế của Mr.Pip gần đây đã lên tới hơn 200 triệu USD.

Một hệ lụy nữa là sự phát triển mạnh mẽ của tiền ảo cũng gây ra tâm lý đầu cơ trong xã hội, khiến nhiều người lao vào đầu tư mà bỏ qua các ngành kinh tế truyền thống, giảm nguồn lực đầu tư xã hội, và gây hệ lụy cuộc sống gia đình, trật tự an ninh…v.v.

Một số kiến nghị:

Một là, xu hướng tiền KTS do NHTW phát hành (CBCD) sẽ ngày càng phổ biến (số liệu gần 5 năm qua cho thấy), và một số quốc gia (như Trung Quốc…) đang có ý định đẩy mạnh quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ điện tử (E-CNY). Vì vậy, Việt Nam cần sớm có nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc và có cách tiếp cận phù hợp với tiền KTS nói chung và tiền CBCD nói riêng, bao gồm cả tiền CBCD do nước khác phát hành và mong muốn được giao dịch, chấp nhận tại Việt Nam.

Hai là, sớm xây dựng khung pháp lý cho tài sản số nói chung và tiền kỹ thuật số nói riêng, theo hướng có thử nghiệm, rồi đánh giá sơ kết, để quyết định nhân rộng hay thu hẹp. Trước mắt, Chính phủ cũng cần sớm ban hành Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (Sandbox") trong hoạt động Fintech (công nghệ tài chính) trong lĩnh vực ngân hàng, sau đó là trong các lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư…vừa kiến tạo phát triển, vừa kiểm soát rủi ro. Theo đó, tham khảo kinh nghiệm quốc tế phù hợp là rất cần thiết.

Ba là, việc cấp phép và giám sát chặt chẽ các sàn giao dịch tiền KTS (nhất là tiền ảo, tiền mã hóa) trong nước là cần thiết. Khi các sàn giao dịch trong nước hoạt động dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước, nhà đầu tư sẽ có môi trường giao dịch an toàn hơn. Đồng thời, điều này cũng hạn chế dòng tiền chảy ra nước ngoài thông qua các sàn giao dịch không rõ ràng. Các sàn được cấp phép cần đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt về bảo mật thông tin, kỹ thuật, nhân sự, minh bạch tài chính và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư…v.v.

Bốn là, có nghiên cứu áp dụng chính sách thuế đối với giao dịch tiền KTS nói chung và tiền mã hóa nói riêng, vừa là biện pháp quản lý, vừa giúp tăng thu ngân sách. Các quốc gia tiên tiến như Mỹ, Singapore đã áp dụng các mô hình thuế đối với tiền mã hóa. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm này để vừa tận dụng tiềm năng kinh tế, vừa thúc đẩy sự minh bạch trong thị trường.

Năm là, cần tăng cường công tác tuyên truyền và giáo dục về tài chính, đầu tư. Đã có một số chương trình của VTV, NHNN…., nhưng còn khá lẻ tẻ, thiếu dài hơn, đồng bộ; nghiên cứu khả năng đưa bộ môn "tài chính cá nhân" vào chính khóa từ cấp THPT.

Cuối cùng, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, bộ, ngành để đảm bảo rằng các chính sách liên quan đến tiền KTS được thực thi một cách đồng bộ và hiệu quả. Việc phối hợp này sẽ giúp hạn chế tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót trong quản lý, đồng thời tạo tiền đề cho việc phát triển bền vững lĩnh vực này trong tương lai.

Các tin khác

Thủ tướng yêu cầu làm NOXH phải nhanh, kịp thời "thay vì phải thủ tục mất 3 năm thì chỉ làm trong 1, 2 tháng sẽ giúp tiết kiệm chi phí tuân thủ"

Thủ tướng yêu cầu làm nhà ở xã hội phải làm nhanh, kịp thời, "thay vì phải thủ tục mất 3 năm thì chỉ làm trong 1, 2 tháng sẽ giúp tiết kiệm chi phí tuân thủ", thì nếu dự án kéo dài thì chi phí tuân thủ cũng tăng lên, gây lãng phí thời gian, công sức, niềm tin, phải làm việc nào dứt việc đó, làm việc nào ra việc đó.