Dấu hiệu nhận biết bạn bị móm
Móm hay còn gọi là khớp cắn ngược là tình trạng bệnh lý bất thường về vị trí và kích thước xương hàm tương đối phổ biến, đặc biệt ở khu vực Đông Nam Á, với tỷ lệ 4-6.5%.
Dấu hiệu phổ biến nhất của móm là răng cửa dưới ở phía trước nhô ra so với răng cửa trên, vùng cằm bị đưa ra trước, hàm trên bị lõm vào. Với các trường hợp nặng có thể gặp dấu hiệu mặt lưỡi cày hoặc hình trăng lưỡi liềm.

Một bạn trẻ bị móm, còn gọi là khớp cắn ngược (Ảnh: Ngọc Quang).
Tình trạng móm có thể do xương hàm trên bị lùi sau, xương hàm dưới bị đưa ra trước hoặc cả hai.
Có nhiều nguyên nhân gây ra móm, có thể do di truyền, chấn thương, khối u làm thay đổi kích thước xương hàm và các hội chứng sọ mặt (Crouzon, Apert, Pfeiffer...).
Không có cơ sở cho thấy các thói quen như nhai nhiều về một bên hay nằm nghiêng về một phía có tác động đến xương hàm. Kiểu hình móm có thể phát sinh từ lúc còn bé hoặc trong giai đoạn dậy thì nên có những bệnh nhân có khuôn mặt bình thường ở độ tuổi nhi đồng nhưng khi lớn lại có tình trạng khớp cắn ngược.

Nhiều người lúc nhỏ có khuôn mặt bình thường, nhưng khi lớn lên lại có tình trạng khớp cắn ngược (Ảnh: Ngọc Quang).
Dấu hiệu của khớp cắn ngược là răng cửa trên ở sau so với răng hàm dưới; tầng mặt giữa phẳng, thiếu độ lồi, vùng rãnh cười có thể lõm; vùng cằm nhô ra trước và có thể lệch sang một bên, bệnh nhân có thể có kiểu hình mặt “lưỡi cày” hoặc hình “trăng khuyết” tương tự như gương mặt phù thuỷ trong văn học phương tây.
Khiếm khuyết về ngoại hình này rất khó sửa chữa bằng các liệu pháp ngụy trang như nắn chỉnh răng, tiêm chất làm đầy hay botox và có ảnh hưởng tiêu cực đến cơ hội trong cuộc sống cũng như sự tự tin của bệnh nhân.
Răng cửa dưới sẽ có xu hướng ở trước răng cửa trên khiến cho bệnh nhân ăn uống khó khăn, không cắn đứt được thức ăn bằng răng cửa. Việc phát âm cũng có thể bị ảnh hưởng nặng nề dẫn đến việc bệnh nhân có thể bị ngọng.
Các răng hai hàm chen chúc, khấp khểnh tạo thành các khe kẽ nhỏ khó vệ sinh, xương ổ răng mỏng làm cho răng dễ bị rụng khi về già.
Có thể xử lý gương mặt "lưỡi cày"?
Ở giai đoạn trẻ đang thay răng sữa, bác sĩ nha khoa có thể cho trẻ đeo khí cụ facemask để kéo vùng xương hàm trên ra trước. Tuy nhiên phương pháp này chỉ có tác dụng với hàm trên.
Khi qua giai đoạn dậy thì có hai phương án điều trị chính, một là chỉnh nha ngụy trang và hai là kết hợp phẫu thuật chỉnh hình xương hàm và chỉnh nha (hay còn gọi là nắn chỉnh răng hoặc niềng răng).
Chỉnh nha ngụy trang có nghĩa là dùng sự di chuyển các răng để che lấp đi các sai lệch về xương hàm. Bác sĩ chỉnh nha có thể dùng các kỹ thuật để khiến cho răng hàm trên phủ ra trước răng hàm dưới.
Trong phần lớn các trường hợp phương pháp này có thể giúp cho bộ răng của bệnh nhân nhìn gần như bình thường nhưng tổng thể khuôn mặt thì không thay đổi và thậm chí còn tệ đi do răng cửa trên phải chìa hơn ra trước và răng cửa dưới ngả thêm ra sau. Điều này thậm chí có thể gây tổn hại đến xương ổ răng khiến cho các răng cửa dưới tăng nguy cơ rụng về lâu dài.
Phương án phẫu thuật chỉnh hình xương hàm kết hợp với chỉnh nha là phương pháp điều trị triệt để và hiệu quả nhất cho các trường hợp móm.
Quá trình điều trị cần bao gồm hai thành phần là phẫu thuật để đưa xương hàm về vị trí và kích thước hợp lý và chỉnh nha để điều chỉnh các răng khớp vào nhau ở vị trí mới của xương hàm.
Cần nhấn mạnh rằng, trong đại đa số các trường hợp việc phối hợp giữa nắn chỉnh răng và phẫu thuật là tối cần thiết để đạt được kết quả điều trị tối đa về thẩm mỹ lẫn chức năng.
Với phương pháp phẫu thuật, thời điểm tốt nhất là khi kết thúc dậy thì. Tuỳ theo yêu cầu về chuyên môn, thời gian và mong muốn của bệnh nhân mà bác sĩ có thể tiến hành trình tự chỉnh nha trước - phẫu thuật sau hoặc phẫu thuật trước - chỉnh nha sau.
Hiện có 3 kỹ thuật chính được sử dụng trong phẫu thuật chỉnh hình xương hàm để sửa chữa tình trạng móm. Với xương hàm trên, kỹ thuật cắt xương hàm theo đường Le Fort I là phương pháp phổ biến nhất để di chuyển hàm trên vào vị trí đã được lên kế hoạch từ trước.
Đối với xương hàm dưới, kỹ thuật chẻ dọc cành cao xương hàm dưới (Bilateral sagittal split osteotomy - BSSO) hay được sử dụng. Kỹ thuật tạo hình cằm có thể được triển khai đồng thời với phẫu thuật 2 hàm để khuôn mặt hài hoà hơn.

Gương mặt bệnh nhân được cải thiện rất nhiều sau phẫu thuật (Ảnh: Ngọc Quang).
Hiện nay, với các phần mềm chuyên dụng, bác sĩ có thể tính toán chính xác mức độ lệch lạc của bệnh nhân để đưa ra phương án hợp lý nhất. Vị trí di chuyển của xương hàm được tính toán với độ chính xác đến từng milimet. Bệnh nhân dù ở Việt Nam cũng có thể tiếp cận những công nghệ này như tại các nước phát triển trên thế giới.
Phẫu thuật chỉnh hình xương hàm để điều trị móm đã trở thành một kỹ thuật thường quy, mỗi ca phẫu thuật chỉ kéo dài 2-4 giờ (trước đây mất 6-8 giờ). Sau phẫu thuật, bệnh nhân chỉ nằm viện 2-3 ngày.
Ngay sau mổ, bệnh nhân chỉ thấy đau rất ít và có thể kiểm soát bằng thuốc giảm đau thông thường. Sau phẫu thuật 1-2 tuần bệnh nhân có thể đi học, đi làm; sau 6 tuần có thể ăn uống bình thường; sưng nề sẽ hết hoàn toàn sau 6 tháng. Bệnh nhân có thể có tê bì nhẹ vùng môi trên và môi dưới và sẽ thường sẽ hết sau vài tháng.
TS.BS Đồng Ngọc Quang
Khoa Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ - BV Răng Hàm Mặt Trung ương