
Tại toạ đàm "Nội địa hóa ngành ô tô với nền kinh tế độc lập, tự chủ" , TS Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương, Bộ Công thương, thành công sau hơn 30 năm xúc tiến đầu tư phát triển ngành ô tô là bên cạnh những sản phẩm ô tô được sản xuất lắp ráp trong nước, đã có những ô tô mang thương hiệu Việt.
Tuy nhiên, hạn chế là tỷ lệ nội địa hóa ô tô con của nước ta còn thấp. TS Ngô Nhật Thái - chuyên gia ngành ô tô cho hay, thống kê đến thời điểm này, tỷ lệ nội địa hóa mới chỉ đạt khoảng 10% đối với dòng xe 5 chỗ ngồi, xe du lịch cỡ nhỏ.
"Tỷ lệ này quá thấp, đặc biệt là so với các nước lân cận như Thái Lan, Malaysia hay Indonesia. Còn xe chuyên dùng hoặc xe tải, xe buýt, tỷ lệ có thể cao hơn, tới 40%, coi như đã đạt được mục tiêu mà Nhà nước đề ra cho đến năm 2020", ông Thái nói.
TS Nguyễn Văn Hội đề nghị tập trung vào khoa học, công nghệ. Bởi, ngành công nghiệp ô tô là ngành công nghiệp đặc thù, rất khác so với các ngành công nghiệp khác.
Ví dụ, từ những bulong, ốc vít, không phải doanh nghiệp Việt Nam không sản xuất được mà là doanh nghiệp Việt Nam không được sản xuất. Vì tất cả những bulong, ốc vít của ô tô đều liên quan đến sở hữu trí tuệ và kiểu dáng công nghiệp, được xây dựng theo chuỗi toàn cầu của các hãng.
Phải thúc đẩy đột phá khoa học, công nghệ để phát triển tất cả ngành công nghiệp phụ trợ của ngành công nghiệp ô tô, từ khung vỏ, truyền động, hộp số, phần mềm điện tử..., hướng đến việc xuất khẩu, nhất là xuất khẩu linh kiện ô tô.
Theo số liệu mới nhất từ Tổng cục Hải quan, tính đến ngày 15/3, kim ngạch nhập khẩu linh kiện, phụ tùng ô tô của Việt Nam đạt 1,013 tỷ USD. Tuy nhiên, con số này vẫn chỉ bằng một nửa so với tổng giá trị xuất khẩu của chính nhóm hàng này, lên tới 2,029 tỷ USD, ghi nhận mức xuất siêu hơn 1 tỷ USD trong quý đầu năm.
Phần lớn các linh kiện được nhập khẩu là những bộ phận kỹ thuật cao, trong nước chưa thể sản xuất, như động cơ, hộp số, bảng mạch điều khiển, cảm biến, bộ túi khí, nguyên liệu sơn… Những linh kiện này thường đi kèm độc quyền công nghệ từ các hãng xe toàn cầu, có giá trị gia tăng lớn và chịu ảnh hưởng lớn bởi chính sách thuế ưu đãi nhập khẩu.
Ngược lại, nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực lại mang đặc trưng của công nghiệp phụ trợ Việt Nam, với tỉ trọng lớn là bộ dây cáp điện, lốp xe, chi tiết nhựa và ghế ngồi, chủ yếu từ các liên doanh với Nhật Bản như Yazaki, Sumiden hay Bridgestone Việt Nam.
Hiện, cả nước có khoảng 2.000 doanh nghiệp sản xuất linh kiện cho ô tô và xe máy, tạo việc làm cho hơn 600.000 lao động. Trong đó, gần 300 doanh nghiệp đã đủ tiêu chuẩn tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Đáng chú ý, tỉ lệ nội địa hóa linh kiện trong chuỗi cung ứng của các công ty Nhật Bản tại Việt Nam đã tăng từ 28% lên 37% trong vòng một thập niên.