Sáng 1.12, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Địa chất và khoáng sản.
Đại biểu Nguyễn Văn Thân (đoàn Hưng Yên) cho rằng, để thực hiện các mục tiêu về kinh tế trong giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn 2045 thì quan trọng nhất là chuyển đổi số và phát triển công nghệ, tăng năng suất lao động, thứ hai là khoáng sản.

Đại biểu Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
ẢNH: GIA HÂN
"Diện tích vùng biển của chúng ta gấp 3 lần diện tích đất liền. Dưới lòng đất của vùng biển rất nhiều khoáng sản, kể cả những khoáng sản quý hiếm mà các nhà địa chất, Bộ NN-MT cơ bản nắm được. Tuy nhiên, hiện nay đầu tư ngân sách cho việc khảo sát rất ít, kể cả trên đất liền", ông Thân nói và đề nghị tập trung đầu tư ngân sách tận dụng được nguồn khoáng sản.
Về cát biển, ông Thân nêu rõ, rất nhiều nhà khoa học, doanh nghiệp và Chính phủ quan tâm bởi "chúng ta đang rất thiếu trong khi khai thác ở sông sẽ ảnh hưởng nhiều đến môi trường".
Trong khi đó, chưa có một báo cáo cụ thể về khoa học là có dùng cát biển để làm đường và làm gì hay không. "Nếu trả lời được câu này thì tôi nghĩ nguyên liệu cát sẽ không thiếu", ông Thân nêu.
Về khoáng sản trên đất liền, đại biểu nhận định dự trữ rất nhiều nhưng nhiều dự án tồn tại 5 - 10 năm. Chỉ có thể khai thác khoáng sản nhanh, gọn, đảm bảo môi trường thì chúng ta mới đạt được nhu cầu kinh tế của đất nước.
Dẫn chứng về mỏ sắt Thạch Khê ở Hà Tĩnh, ông Thân cho hay, "hàng tỉ đô la nằm trong đấy, mà khai thác đang dừng lại".
"Đây là ví dụ, còn rất nhiều mỏ khác. Khoa học, công nghệ đã rất phát triển, giải quyết vấn đề môi trường hiện nay thế giới đã khắc phục, các nhà khoa học cũng đã chứng minh được. Thế thì tại sao chúng ta lại để những tiềm năng thiên nhiên như thế nằm trong lòng đất chỉ vì việc ảnh hưởng đến môi trường", ông Thân nói và đề nghị có giải pháp để vừa khai thác, vừa đảm bảo môi trường.
Mỏ sắt Thạch Khê từng là mỏ sắt lớn nhất Đông Nam Á, song vẫn bất động sau gần 15 năm và chưa có kế hoạch khai thác trở lại.
Làm chủ công nghệ đất hiếm
Góp ý về nội dung đất hiếm, đại biểu Trịnh Xuân An (đoàn Đồng Nai) cho rằng, việc quản lý và làm chủ công nghệ đất hiếm rất quan trọng trong dự thảo luật. Điều này sẽ giúp khẳng định vị thế của Việt Nam, nhất là với khía cạnh quốc phòng, an ninh.

Đại biểu Trịnh Xuân An (đoàn Đồng Nai)
ẢNH: GIA HÂN
Đồng tình với việc đưa đất hiếm trở thành tài nguyên chiến lược trong quy định dự thảo luật với nhiều điểm tiến bộ, song theo đại biểu, yếu tố an ninh quốc phòng trong dự thảo chưa được thể hiện rõ.
“Trên thế giới hiện nay, Việt Nam là nước có trữ lượng đất hiếm lớn, có thể nói là thứ hai trên thế giới. Các nước, nhất là các cường quốc đã biến đất hiếm thành công cụ mặc cả chiến lược với nhau, có thể gây sức ép về quốc phòng, an ninh”, ông Trịnh Xuân An nêu.
Theo đại biểu, đất hiếm là nền tảng công nghệ cho rất nhiều loại vũ khí, đặc biệt là vũ khí chính xác cao. Trong khi đó, sức mạnh của dân tộc, quốc gia thể hiện thông qua hệ thống vũ khí, hệ thống công nghiệp quốc phòng.
Do đó, "cần phải nghiên cứu rất kỹ", ngoài quy định về khu dự trữ đất hiếm, cần phải có những mỏ đất hiếm hoặc khu dự trữ dành riêng cho quốc phòng. "Cần quy định về kiểm soát công nghệ và dữ liệu liên quan đến đất hiếm và quốc phòng. Dữ liệu đất hiếm có thể được bố trí thuộc danh mục bí mật nhà nước”, đại biểu Trịnh Xuân An góp ý thêm.
Đề nghị bố trí một chương riêng liên quan đến đất hiếm đối với quốc phòng, an ninh, ông Trịnh Xuân An cho rằng, điều này rất quan trọng để luật vừa là công cụ phát triển, quản lý, vừa gắn với việc phát triển tiềm lực quốc gia. Một số nước như Trung Quốc, Nhật, Mỹ đã rà soát và nêu vấn đề quốc phòng rất chặt chẽ trong quản lý đất hiếm.










