Theo một khảo sát của một công ty nghiên cứu tín dụng, số lượng các vụ phá sản doanh nghiệp tại Nhật Bản trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 11 đã lên tới 9.372 vụ. Tổng số trong toàn bộ năm 2025 vì vậy có khả năng vượt quá 10.000 vụ - năm thứ hai liên tiếp.
Theo Tokyo Shoko Research, số vụ phá sản với khoản nợ từ 10 triệu yên (64.500 đô la) trở lên trong tháng 11 đã giảm 7,5% so với năm trước, xuống còn 778 vụ. Dữ liệu cho thấy các doanh nghiệp nhỏ đặc biệt bị ảnh hưởng bởi giá cả tăng cao và tình trạng thiếu lao động.
Tổng nợ phải trả trong tháng 11 giảm 48,6 phần trăm xuống còn 82,4 tỷ yên khi số vụ phá sản liên quan đến khoản nợ từ 500 triệu yên trở lên giảm một nửa. Xét theo ngành, lĩnh vực dịch vụ ghi nhận số lượng phá sản cao nhất trong tháng với 250 vụ, mặc dù con số này giảm 17,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo các chuyên gia, nhiều doanh nghiệp nhỏ tại Nhật Bản vẫn đang vật lộn với khoản nợ lớn tích tụ từ thời đại dịch Covid-19. Cộng thêm lạm phát, nền kinh tế lớn thứ tư thế giới cũng phải chao đảo.
Trước đó, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản BOJ đã công bố kết quả cuộc khảo sát “Tankan” - một cuộc khảo sát kinh tế ngắn hạn đối với 9.000 doanh nghiệp trên toàn quốc trong tháng 3. Kết quả cho thấy, lần đầu tiên tâm lý kinh doanh của các công ty sản xuất lớn của Nhật Bản đã xấu đi do thuế quan của Mỹ và sự suy giảm của nền kinh tế Trung Quốc. Tình trạng thiếu hụt lao động cũng đang ngày càng nghiêm trọng ở Nhật Bản.
Ngoài việc chi phí mua hàng tăng lên, một số công ty cho biết đồng yen yếu đã làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt lao động, với lý do số người tìm việc không phải người Nhật Bản giảm. Theo khảo sát năm 2024 của công ty nhân sự Mynavi Global, 91% sinh viên và người lao động nước ngoài sống ở Nhật Bản cho biết họ muốn ở lại. Ngay cả khi loại bỏ yếu tố tiền tệ, mức lương của Nhật Bản từ lâu vẫn ở mức khiêm tốn vì bị ảnh hưởng bởi hàng thập kỷ giảm phát và tăng trưởng thấp.
“Tình hình lạm phát tăng cao hiện nay đã ảnh hưởng đến dòng tiền của nhà cung ứng lẫn người tiêu dùng, qua đó tác động đến khả năng đàm phán về giá giữa các bên để có thể duy trì doanh nghiệp”, chuyên gia Kaitaro Asahi của Ngân hàng Teikoku Databank nhận định.
Một số công ty đang phải tăng lương để thu hút lao động nước ngoài, đồng thời chuyển chi phí sang người tiêu dùng và gián tiếp gây áp lực lạm phát. Chẳng hạn vào năm ngoái, nhà cung cấp dịch vụ dọn phòng Nhật Bản Bears, vốn phụ thuộc một phần vào lực lượng lao động trẻ có trình độ từ Philippines, đã tăng phí dịch vụ lần đầu tiên sau 18 năm, lên tới 20%.
Tuy nhiên, ở các doanh nghiệp nhỏ, lợi nhuận thấp, tăng lương lớn không phải lựa chọn khả thi về lâu dài.
“Mức lương của tôi vẫn giữ nguyên”, Spandan Sunar, một công dân Nepal 27 tuổi cho biết. Sunar hiện đang làm việc tại một công ty vận tải ở Chiba, phía đông Tokyo, từng gửi khoảng 50.000 yên mỗi tháng về cho gia đình ở quê khi anh mới đến vào năm 2018.
“Người nước ngoài làm việc tại Nhật Bản đang phải vật lộn với vấn đề thu nhập thấp”, anh nói và so sánh hoàn cảnh của mình một cách bâng khuâng với những người bạn Nepal kiếm được mức lương cao hơn ở Mỹ và Úc.
Nếu lương vẫn không tăng, trong khi đồng yên tiếp tục suy yếu, số lượng người muốn đến Nhật Bản trong tương lai sẽ sụt giảm, theo Yamazaki, phó giám đốc bộ phận phát triển kinh doanh toàn cầu của Career-tatsu. Công nghệ thông tin là lĩnh vực mà các công ty Nhật Bản đặc biệt quan ngại.
Đối với các công việc cổ trắng, Kevin Naylor, giám đốc điều hành của Future Manager World USA kiêm cựu giám đốc của cơ quan tìm kiếm nhân tài trên thế giới cho biết các công ty ở Nhật Bản có xu hướng thuê công dân bản địa hoặc người nước ngoài sinh sống ở Nhật Bản.
Luke Furnival, phụ trách thị trường công nghệ với tư cách phó giám đốc của công ty tuyển dụng Robert Walters Japan, cho biết: “Thường có một khoảng cách đáng kể giữa những gì ứng viên mong đợi và những gì họ có thể làm ở Nhật Bản. Trong vài năm qua, chúng tôi đã phải tập trung quản lý kỳ vọng đó hơn những năm trước”.
IMF cũng nhấn mạnh, rằng dân số già hóa và suy giảm tiếp tục gây áp lực lớn lên triển vọng tăng trưởng. Phân tích chỉ ra rằng dân số Nhật Bản là một trong những dân số già nhất thế giới và đã tăng trưởng âm kể từ năm 2011, dự kiến sẽ giảm đáng kể trong 50 năm tới. Điều này làm tăng chi phí lao động do số lượng người lao động có sẵn ít hơn.
Trên thực tế, tổ chức OECD nhận định rằng triển vọng tăng trưởng toàn cầu đang suy yếu trong năm 2025-2026 do tâm lý kinh doanh và người tiêu dùng suy giảm, cùng với lạm phát dai dẳng. Các rào cản thương mại cao hơn và sự bất ổn chính sách gia tăng đang gây áp lực lên đầu tư và chi tiêu hộ gia đình trên toàn cầu.
Theo: Manichi, Nikkei Asia









