Xem video trực tiếp trên fanpage: tại đây
[Tiếp tục cập nhật]
TS. Nguyễn Hữu Huân: Chúng ta đã sống trong một thế giới bất định, nhiều biến số khó dự báo. Khi các biến số này xảy ra cũng tác động ngay lập tức làm đảo chiều các dự báo trước đó. Chính vì vậy, việc điều hành của Fed hay NHNN đều rất khó đoán định. Năm 2022, NHNN phải đối mặt với biến số về tỷ giá và lạm phát, đến năm 2023 lại là câu chuyện về tăng trưởng. Đến năm 2024 lại có khả năng quay trở lại câu chuyện về tỷ giá và lạm phát. Với các biến số bất định như vậy, NHNN luôn phải cân bằng giữa việc ổn định lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng. Vậy sang năm 2024, chúng ta nên ưu tiên vấn đề gì hơn?
Ông Trần Ngọc Báu: Dự báo kinh tế 2024 vẫn phục hồi tương đối chậm, do kinh tế nước ta phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu. Dự báo triển vọng kinh tế các đối tác thương mại chính như EU, Mỹ vẫn tiêu cực. Vì vậy chưa thể kỳ vọng sự bứt phá mạnh đến từ khu vực tiêu dùng nước ngoài. Trong khi đó, tiêu dùng trong nước phụ thuộc nhiều vào thị trường bất động sản, có thể cuối năm nay bất động sản mới có sự phục hồi rõ nét. Nhìn tổng thể, chưa thể kỳ vọng kinh tế năm 2024 bứt tốc mạnh.
Do đó nhà điều hành vẫn phải linh hoạt, duy trì chính sách cân bằng, không hẳn nới lỏng cũng không hẳn thắt chặt. Cụ thể vẫn duy trì chính sách lãi suất huy động, lãi suất cho vay, tăng trưởng tín dụng đủ tốt nhằm hỗ trợ kinh tế. Nhưng ở thị trường 2 vẫn phải nhấc nền lãi suất liên ngân hàng lên khoảng 2-4% để hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và tỷ giá không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi chính sách nới lỏng.
TS. Nguyễn Hữu Huân: Một khi trường chứng khoán Việt Nam nâng hạng từ cận biên sang thị trường mới nổi thì chắc chắc dòng vốn sẽ đổ vào. Trong thời gian tới chúng ta cũng sẽ phải quan tâm đến các vấn đề về lãi suất, liệu NHNN có chuyển trạng thái từ nới lỏng hay thắt chặt hơn. Hiện trên thị trường đang có sự đảo chiều về thanh khoản từ mỗi phiên lên tới hàng triệu USD nhưng giờ lại sụt giảm, khối ngoại bán ròng vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này thưa ông?
Ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Phân tích CTCK Yuanta Việt Nam: Như chúng ta đã biết, tính từ đầu năm 2023 đến nay thì VN-Index cũng như hầu hết các chỉ số chứng khoán khác đều có sự hồi phục trở lại với xu hướng tăng mạnh mẽ. Điểm cộng lớn nhất của VN-Index trong tình hình 9 tháng đầu năm vừa qua là yếu tố về mặt thanh khoản.
Nếu nhìn lại thì điểm số VN-Index cũng chưa thể quay trở lại thời điểm đỉnh của năm 2021, tuy nhiên thanh khoản của thị trường đã quay lại mức đỉnh của năm 2021. Thanh khoản trung bình trong giai đoạn tháng 5 đến tháng 9 ghi nhận xấp xỉ 1 tỷ USD mỗi phiên. Có thể nói giá trị giao dịch của chúng ta đang nhỉnh hơn và nằm trong Top 3 thị trường chứng khoán có giá trị giao dịch thanh khoản khá tốt trên khu vực Đông Nam Á.
Như vậy, có thể thấy đà tăng của thị trường trong thời gian vừa qua là một trong những yếu tố kích thích dòng tiền gia tăng vào thị trường, cộng với tác động từ bối cảnh lãi suất giảm cũng như sự kỳ vọng của nhà đầu tư trên toàn cầu cũng khuyến khích nhà đầu tư quay lại hoặc gia tăng đầu tư vào thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua. Chính vì vậy chúng ta thấy một lượng tiền lớn dịch chuyển vào thị trường với giá trị thanh khoản lớn như vậy.
Đến thời điểm hiện tại, trong vài tuần gần đây đã bắt đầu có sự sụt giảm đáng kể, đặc biệt là sau cú sụt giảm vào phiên ngày 18/8 và thời điểm đầu tháng 9 thì có thể thấy tình hình thanh khoản của thị trường đã bắt đầu có chiều hướng sụt giảm đáng kể.
Những yếu tố tác động đến thị trường chứng khoán cuối năm 2023
TS. Nguyễn Hữu Huân: Bức tranh kinh tế đầu năm và triển vọng quý IV/2023 đan xen giữa những thông tin tốt và xấu. Vậy đâu là thông tin nhà đầu tư nên quan tâm hơn về kinh tế vĩ mô và các yếu tố tác động đến thị trường chứng khoán giai đoạn cuối năm?
Ông Đào Minh Châu: Theo tôi có thể chia ra một số nhóm yếu tố sẽ tác động đến thị trường. Thứ nhất, nhà đầu tư cần quan sát các biến số vĩ mô như GDP, PMI, CPI, lạm phát, tỷ giá, tăng trưởng tín dụng, lãi suất, xuất khẩu và các động thái của Ngân hàng Nhà nước. VN-Index thường có tương quan với lãi suất huy động. Chỉ số thường giảm trong những giai đoạn lãi suất tăng. Ngược lại, chứng khóa tăng mạnh trong những giai đoạn nới lỏng tiền tệ, điển hình như năm 2020.
Về yếu tố kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, hiện chúng ta đã bước vào quý cuối năm rồi, nhà đầu tư đang dần hướng đến triển vọng của 2024. Tuy nhiên, kết quả nửa cuối 2023 cũng sẽ cung cấp cơ sở cho nhà đầu tư nhìn nhận triển vọng cho năm sau. Yếu tố thứ ba là dòng tiền, đặc biệt dòng tiền từ nhà đầu tư cá nhân.
Theo thống kê của SSI Research, nhóm nhà đầu tư cá nhân mua ròng khoảng 19.000 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm 2023 (cao hơn so với mức bán ròng 16.000 đồng tỷ trong cả năm 2022), và chiếm khoảng 85% tổng giá trị giao dịch toàn thị trường. Yếu tố này góp phần đáng kể cho đà tăng trưởng khoảng 20% từ đầu năm của thị trường đến đỉnh vào giữa tháng 9.
Trong những tháng gần đây, số lượng nhà đầu tư mở mới tài khoản khá cao, thậm chí cao hơn cả giai đoạn COVID-19. Thông thường nhà đầu tư cá nhân có sự xoay vòng dòng tiền nhanh hơn so với nhà đầu tư tổ chức. Một yếu tố nữa là diễn biến thị trường chứng khoán thế giới.
Vừa rồi VN-Index đã có mức điều chỉnh khoảng 12% từ đỉnh, chứng khoán Mỹ cũng có nhịp điều chỉnh khoảng 8%. Quan sát trong quá khứ, chỉ số chứng khoán giữa hai thị trường cũng có những sự đồng pha. Yếu tố cuối cùng là khả năng hạng thị trường và triển khai hệ thống KRX trong thời gian tới cũng là yếu tố hỗ trợ thị trường.
CEO WiGroup: Câu chuyện NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ thêm là khó xảy ra nhưng cũng không có sự thắt chặt
Trong phần chia sẻ đầu sự kiện, ông Trần Ngọc Báu, Tổng Giám đốc WiGroup đã có những chia sẻ liên quan đến bức tranh vĩ mô của Việt Nam.
Ông Trần Ngọc Báu, CEO WiGroup: Năm 2022 là năm khá thành công với kinh tế Việt Nam, khi tăng trưởng lĩnh vực xuất khẩu, tiêu dùng, sản xuất đều ấn tượng Sang năm 2023, Việt Nam có mục tiêu tăng trưởng kinh tế khá khả quan ở mức 6,5%. Tuy nhiên đến hết quý I, kinh tế gặp nhiều khó khăn hơn chúng ta nghĩ. Đặc biệt sau giai đoạn bùng nổ năm 2022. Xuất khẩu năm nay sụt giảm mạnh, tiêu cực hơn cả giai đoạn COVID-19.
Có thể nói trong mười mấy năm xuất khẩu chưa bao giờ bị ảnh hưởng nặng nề như vậy. Xuất khẩu suy giảm, tiêu dùng trong nước lại không thực sự phục hồi tốt. Sau biến cố bất động sản, trái phiếu, tiêu dùng trong nước bị ảnh hưởng. Tổng tiêu dùng trong nền kinh tế đi chậm, kéo theo khu vực sản xuất tăng trưởng chậm theo.
Những tháng đầu năm Việt Nam có mức tăng trưởng rất thấp so với mục tiêu đề ra, buộc chính sách phải thay đổi để kích thích nền kinh tế Lạm phát tương đối thấp đã giúp tạo không gian duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng. Ngoài ra tỷ giá 6 tháng đầu năm tương đối ổn định. Trong khi các nước vẫn tăng lãi suất, Việt Nam là 1 trong 3 nước đầu trên thế giới đẩy mạnh giảm lãi suất.
Đầu 2023 khi kinh tế bắt đầu yếu, có hai hiện tượng chú ý về lãi suất. Thứ nhất là lãi suất liên ngân hàng đi gần về 0% ở kỳ hạn qua đêm. Lãi suất liên ngân hàng thấp kéo theo hai hệ lụy giá tài sản tài chính tăng tuong đối mạnh vì kỳ vọng về giai đoạn siêu nới lỏng như giữa 2020 Thứ hai là mức chênh lệch lãi suất của Việt Nam và thế giới quá lớn, nguy cơ làm dịch huyển dòng vốn.
Dĩ nhiên nhà điều hành nói chung đều biết được hậu quả đó. Trong 9 tháng đầu năm chúng ta gồng để đợi tiền kịp thẩm thấu vào nền kinh tế. Mặc dù rất cố găng chúng ta có tăng trưởng cung tiền, tín dụng xét về cùng kỳ thấp hơn cả năm 2022 và thấp nhất trong giai đoạn hơn 10 năm. Đây là dấu hiệu cho thấy chúng ta chỉ nới lỏng vể chính sách. Vốn không ra được kinh tế, nền kinh tế phục hồi tương đối chậm. SBV quyết liệt duy trì chính sách nới lỏng tuy nhiên kinh tế chưa kịp phục hồi, tỷ giá bắt đầu căng thẳng. Hai nguyên nhân, nguyên nhân cốt yếu là chênh lệch về lãi suất. Dòng vốn dịch chuyển ra khỏi Việt Nam tương đối mạnh nhưng nhờ lợi thế thặng dư thương mại mạnh nên cân bằng được cán cân tổng thể. Nguyên nhân thứ hai do tâm lý đè nặng vì thời điểm năm ngoái tỷ giá cũng căng thẳng.
Áp lực của tỷ giá vào cuối năm nay và năm sau sẽ lớn hơn giai đoạn 2023 rất nhiều bởi gần như bối cảnh đã có sự thay đổi. Nhìn vào cán cân tổng thể của Việt Nam có thể thấy dòng chênh lệch về lãi suất thực sự đã kích hoạt dòng vốn dịch chuyển ra khỏi Việt Nam nhưng thặng dư vãng lai đặc biệt là thặng dư thương mại đã kéo được ngoại hối trở lại và làm cân bằng dòng vốn đó. Nhưng thặng dư thương mại năm nay chủ yếu do nhập khẩu giảm mạnh.
Khi xuất khẩu gặp khó, chúng ta có xu hướng giảm nhập khẩu và sử dụng hàng tồn kho trong nước để sản xuất nhưng khi nền kinh tế phục hồi, nhu cầu sản xuất trở lại nhập khẩu cũng sẽ phục hồi, khi đó thặng dư thương mại không còn tốt như bây giờ. Sợi dây lớn nhất để giữ tỷ giá ổn định cũng không còn chắc chắn như trước. Tỷ giá cũng là vấn đề khiến Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải cân nhắc trong quá trình duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng.
Dự báo quý IV có một số biến số cần quan tâm. Về tỷ giá, lạm phát của Mỹ bắt đầu quay trở lại, tiệm cận 4%, cùng với sức khỏe nền kinh tế Mỹ thì nhiều khả năng Fed tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, giữ nền lãi suất ở mức cao. Đến giữa tháng 6/2024, nhiều khả năng mới đảo chiều. Như vậy chênh lệch lãi suất của Việt Nam và Mỹ vẫn tương đối lớn, tạo áp lực của tỷ giá vào cuối năm nay và năm sau.
Thứ hai, lạm phát sẽ lại là vấn đề cần được quan tâm đầu năm 2024. Lạm phát trong 3 tháng vừa qua tăng trưởng rất nhanh và 9 tháng tăng 3,66% so với cùng kỳ. Theo ước tính của tôi chỉ số giá tiêu dùng CPI có thể lên tới mốc 115 trong trạng thái giá dầu ở mức hiện tại chứ nếu giá dầu căng thẳng hơn nữa, câu chuyện sẽ còn tiêu cực hơn.
Với quán tính lạm phát tăng như tốc độ hiện tại, lạm phát cuối năm dự báo ở mức 3,46% đạt mục tiêu của Chính phủ. Nhưng sang năm sau vào tháng 1, tháng 2 với cách tính của Việt Nam lạm phát có thể vọt lên 4,6%, 4,7% vượt xa con số trung bình các năm trước. Như vậy, tỷ giá và lạm phát sẽ là các yếu tố khiến NHNN khó có thể duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng như năm 2023.
Trong năm 2024, có thể thanh khoản của hệ thống ngân hàng sẽ không được tốt như năm 2023. Tại Việt Nam các doanh nghiệp phụ thuộc khá nhiều vào dòng vốn tín dụng nhất là trong khi các thị trường khác đều đang gặp khó. Muốn phục hồi sản xuất bắt buộc tăng trưởng trở lại. Với một nhà đầu tư muốn nhìn được sản xuất phục hồi cần quan sát câu chuyện tăng trưởng tín dụng, huy động vốn vào giai đoạn cuối năm nay và đầu năm sau. Tổng kết lại, câu chuyện NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ thêm là khó xảy ra nhưng cũng không có sự thắt chặt.
Thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn điều chỉnh sau 6 tháng tăng điểm liên tục. Diễn biến của chứng khoán Việt Nam đồng pha với xu hướng chung toàn cầu, nhưng có phần tích cực hơn. Cụ thể, nếu VN-Index vẫn giữ được mức tăng gần 15% sau 9 tháng, khởi sắc hơn các thị trường trong khu vực như Thái Lan, Philippines, Malaysia.
Trong ngắn hạn, tâm lý nhà đầu tư đang bị tác động bởi những yếu tố đến từ quốc tế và trong nước. Cục Dự trữ Liên đang Mỹ (Fed) vẫn phát đi tín hiệu tiếp tục tăng lãi suất trong khi chỉ số DXY mạnh lên khiến dòng vốn đầu tư xoay chiều. Trong nước, động thái phát hành tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước, tăng trưởng tín dụng hay những biến số vĩ mô được giới đầu tư chú ý.
Song, nhịp điều chỉnh của thị trường cũng sẽ mở ra cơ hội khi định giá doanh nghiệp ở mức phù hợp hơn. Mùa báo cáo kết quả kinh doanh quý III sắp tới là thời điểm để nhà đầu tư chọn lọc những doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh sáng cửa.
Để nhà đầu tư có thêm góc nhìn về dự báo vĩ mô, tiền tệ và đầu tư chứng khoán dựa trên nền tảng phân tích dữ liệu, VietnamBiz (vietnambiz.vn) phối hợp cùng Câu lạc bộ CFO Việt Nam (CFO Việt Nam) tổ chức buổi tọa đàm trực tuyến với chủ đề Data Talk: “Tâm điểm vĩ mô & thị trường chứng khoán quý IV/2023". Tọa đàm này nằm trong chuỗi sự kiện hướng tới Diễn đàn Đầu tư Việt Nam 2024 (Vietnam Investment Forum 2024) diễn ra ngày 9/11 tại TP HCM.
Toạ đàm có sự tham gia của các diễn giả:
TS. Nguyễn Hữu Huân, Chuyên gia kinh tế, Đại học Kinh tế TP HCM
Ông Trần Ngọc Báu, Tổng Giám đốc CTCP Dữ liệu và Công nghệ Tài chính WiGroup
Ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc phân tích Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam